Tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam hiện có trưng bày bức thư với nội dung là bài thơ của một người vợ bộ đội gửi chồng trong chiến trường những năm chống Mỹ. Mất khá nhiều thời gian đi tìm người trong thư, tôi đã gặp lại được người lính ấy cùng câu chuyện tình cảm động của ông bà. Ông là Đại tá pháo binh Đỗ Sâm...
Trong căn hộ tại khu tập thể Thanh Xuân Bắc, ở tuổi 76, với giọng nói ấm áp, Đại tá Đỗ Sâm nhớ về thời trai trẻ của mình. Mấy chục năm trôi qua, ông vẫn thuộc làu bài thơ trong lá thư mà vợ ông, bà Đào Thu gửi vào chiến trường, có đoạn:
Thương anh đi giữa Hè oi bức
Nắng dội Trường Sơn,
nắng cháy rực người
Mơ ước sao rừng lá xanh tươi
Che bóng mát cho người yêu dấu
Gia đình ông vốn ở phố Hàng Trống, Hà Nội, tuy nghèo nhưng ông vẫn được cha mẹ nuôi ăn học khá chu đáo. Khi còn là cậu bé trường Bưởi, Đỗ Sâm đã tham gia đội thiếu niên cứu quốc, tự vệ khu phố Hàng Gai. Cuối năm 1949, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn ác liệt, rời mái trường trung học Chu Văn An, ông tình nguyện xin được trực tiếp ra tiền tuyến chiến đấu giải phóng quê hương. Năm 1951, ông được cử sang Trung Quốc tập huấn và được điều động về chiến trường Điện Biên Phủ. Từng tham gia các trận đánh lớn ở khắp chiến trường Tây Bắc, những năm tháng trong quân ngũ đã rèn luyện ông khí phách hiên ngang của người lính.
Về nghỉ hưu năm 1991, Đại tá Đỗ Sâm có dịp trở lại chiến trường xưa, gặp lại nhiều đồng chí đồng đội trước đây, ông thực sự xúc động trước những tấm gương hy sinh anh dũng của đồng đội. Từ năm 1993, ông bắt đầu sưu tầm, ghi chép lại những câu chuyện cảm động đó. Hàng trăm bài báo của ông được dùng trên các báo, nhiều bài được trao giải thưởng. Những nhân vật dưới ngòi bút của ông đã hiện lên sinh động: anh lái xe kéo pháo dân tộc Giẻ Triêng, ông Ba Tư Gừm ở ngã ba biên giới, anh hùng Bùi Ngọc Đủ ở Gia Lai, chị pháo thủ Thanh An ở Lâm Đồng, chị giao liên Đặng Thị Lén ở Điện Bàn...
Khi nói về mối lương duyên với người vợ hiền thục của mình, ông tâm sự: “Tôi và nhà tôi gặp nhau thật tình cờ, ngày đấy tôi còn trẻ lắm. Năm 1957, tôi được điều động về làm giáo viên Trường sĩ quan Pháo binh vừa được thành lập tại Sơn Tây. Khi đất nước chìm trong khói lửa của chiến tranh, tôi phải lên đường gấp. Để kịp thời gian, tôi đành phải gửi xe đạp ở một nhà dân gần trường tôi giảng dạy. Nhưng người ta không cho tôi gửi với lý do nhà chật, tôi đành mang xe sang gửi ở một nhà hàng xóm, kèm theo cả một hòm sách quý...”.
Ông chủ nhà, khi ấy nguyên là Trưởng ty cảnh binh Sơn Tây, sau này Đỗ Sâm mới biết là người của Việt Minh cài vào hoạt động trong lòng địch, cụ vốn làm tình báo nên rất đa nghi. Vì vậy, cụ đã quyết định mở hòm của anh lính trẻ Đỗ Sâm xem. Thật bất ngờ, bên trong toàn sách Ruồi Trâu, Thép đã tôi thế đấy... và tập giáo án giảng dạy pháo binh. Khi biết được điều ấy, cụ thầm nghĩ: “Chàng trai này không phải là người tầm thường vì anh ta giữ gìn sách như vậy. Nếu hết chiến tranh, sẽ gả con gái cho người lính này"…
Mùa thu năm 1961, ông nhớ như in cái ngày ông và bà gặp nhau. Nhưng lúc ấy, bố vợ ông không dám lộ ra bí mật về thân phận hoạt động tình báo của mình nên phải sau một thời gian dài xin ý kiến cấp trên, ông và bà nhà mới được xây dựng hôn lễ vào năm 1967. Cưới xong, ông phải lên đường gấp vào chiến trường miền Nam. Và đấy cũng chính là lý do ông đã viết thư tình cho vợ trẻ khi hai người chưa kịp có con. Phải xa người vợ trẻ, ông nhớ lắm.
Ông kể, ban đêm hành quân triền miên, ban ngày nghỉ, vào mỗi buổi sáng, tôi ra bờ suối, lấy bút chì và ghi cho vợ mấy dòng tâm sự. “Thế ông không bị cấp trên kỷ luật về những cánh thư ủy mị đó sao?”. Ông ngồi phắt dậy: “Có chứ, tôi cũng bị không ít lời chỉ trích của nhiều anh em trong đơn vị. Nhưng nếu không có lãng mạn thì sao chúng ta có thể lạc quan để đối mặt với quân thù và chiến thắng như ngày hôm nay. Đó là cái lãng mạn xã hội chủ nghĩa”. Không kể ngày hay đêm, cứ rảnh ra, ông lại viết thư cho vợ mình. Những lá thư là niềm động viên rất lớn cho ông bước vào mỗi trận đánh quyết định.
Tôi và ông đang say sưa trong câu chuyện, từ trong bếp, bà Đào Thu-vợ ông đi ra nói chen vào: “Ngày ấy, tôi thuộc diện có nhan sắc, cha tôi lúc bấy giờ đã hứa gả cho ông Phan Kế Tuyến, là cháu của ông Phan Kế Toại. Nhưng do mê sách và mến mộ tài của anh lính trẻ và nhất là những câu chuyện ông kể sau mỗi trận đánh, tôi mê tít và thầm yêu ông từ lúc nào không biết”. Trong rất nhiều bài thơ mà bà viết cho ông, có nhiều bài đã được lưu giữ trong Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam). Ông bảo, trong những năm tháng ác liệt đó, Đào Thu, vợ ông viết khá nhiều thư gửi vào động viên khích lệ tinh thần chiến đấu cho ông. Nhưng do cuộc sống của người lính kham khổ, nên sau mỗi lần nhận thư, ông đều cho đồng đội lấy làm giấy cuốn thuốc lá. Vì vậy, bài thơ này đã trở thành kỉ vật quý giá nhất của vợ chồng ông. Hiện bài thơ này được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Bài thơ như sau:
Thương anh đi giữa Hè oi bức
Nắng dội Trường Sơn,
nắng cháy rực người
Mơ ước sao rừng lá xanh tươi
Che bóng mát cho người yêu dấu
Gác tình riêng anh đi chiến đấu
Ở phương xa, vợ trẻ mong chờ
Cho những mối tình,
Cho những ước mơ
Cho anh, cho em
và cho tất cả
Đào Thu, 1968
Bài và ảnh: Phạm Nhung