Nổi bật trong gian phòng nhỏ là bức hình ông bà ngày cưới giữa chiến trường với bộ quân phục cùng nụ cười rạng rỡ... Thấy tôi chăm chú, bà cười: “Chuyện của hai bác dài lắm nghe con! Bác chỉ có ông ấy là mối tình đầu. Còn ông ấy, chuyện tình mới kỳ lạ!”.

Mối tình đầu

Ông sinh năm 1931 ở Tiên Du (Bắc Ninh), 16 tuổi đã vào bộ đội. Bốn năm ở Trường Sơn, ông đã mổ cấp cứu hàng nghìn thương binh ngay tại chiến trường… Năm 1969, ông được tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Năm 1950, trước khi mở chiến dịch, ta lập một bệnh viện dã chiến. Khi ấy, Lưu mới 19 tuổi. Mối tình đầu đến nhanh và cũng qua nhanh, phũ phàng như dòng suối mùa lũ. Về bệnh viện dã chiến, Lưu đã được cô Bế Thị Hậu, xinh tươi như đóa hoa đào làm cùng viện đem lòng yêu. Một ngày, anh Tiềm, viện trưởng, sau giờ làm việc chợt gọi Lưu lên phòng, vỗ vai:

- Cậu yêu cái Hậu hả. Coi chừng, anh trai nó đang tìm cậu để… bắn đấy!

Anh Tiềm bảo: anh P anh trai Hậu vốn là chỗ quen biết Tiềm. Nhưng không hiểu sao, anh ta rất bực tức, cay cú khi hay tin Lưu và Hậu yêu nhau…

Lưu mang chuyện hỏi Hậu. Gặng mãi, cô nói: P chỉ là anh nuôi. Anh ấy cũng thích Hậu, nên không muốn ai chiếm mất!

Lưu về hoang mang, buồn bã mấy ngày trời. Anh Tiềm thấy thế động viên:

- Thôi, tiền bạc phân minh, ái tình dứt khoát. Tớ sẽ mời cả cô Hậu và anh P đến ba mặt một nhời. Còn cậu, nấp trong buồng tớ nghe cô ấy nói mà quyết định…

Chiều hôm sau, anh P và cô Hậu tới. Tiềm hỏi:

- Bây giờ ba mặt một nhời, cô Hậu có yêu thằng Lưu không?

Vợ chồng anh hùng Tạ Lưu

Hỏi mãi, Hậu vẫn im lặng. P giục: “Mày có yêu nó không?”.

Không gian chùng xuống. Không thể kìm nén được nữa, Hậu lý nhí: “có!”.

Lưu sung sướng muốn chạy lao ra. Còn P, nỗi thất vọng như bùng nổ, anh ta rút con dao đánh “soạt”, mắt đỏ ngầu:

- Mày yêu nó thật không? Thật không? Mày cầm dao đâm chết luôn tao đi hoặc tao đâm chết mày!

Tình huống bất ngờ. Tiềm sợ P làm liều, đành khéo léo động viên:

- Cậu cứ bình tĩnh về đi. Tôi bảo thằng Lưu thôi không yêu nữa…

Anh P về nhưng vẫn bỏ lại một câu: “Tôi sẽ giết nó”.

Vài ngày sau, anh Tiềm cho Lưu về phép. Khi anh lên trả phép thì Hậu cũng đã được trả về địa phương. Anh Tiềm không muốn vì hai người yêu nhau mà xảy ra rắc rối, đành thực hiện giải pháp an toàn cho họ.

Ba năm sau, Lưu được giao nhiệm vụ từ Thái Nguyên lên Trùng Khánh mua bò về bồi dưỡng cho thương binh. Trở lại vùng đất năm xưa, nỗi nhớ thương người yêu lại dâng lên trong lòng. Anh dò hỏi tin Hậu, người ta bảo: Về sau cô không lấy P mà lấy một người khác; già và xấu. Được hơn một năm thì cô bị bệnh rồi chết. Anh lặn lội đường rừng, lén lút tới bên nấm mồ Hậu, thắp cho cô một nén nhang…

Cái hôn thời chiến

Mối tình đầu tan vỡ đã hằn sâu trong tim Lưu một vết thương. Anh lao vào công việc để quên đi nỗi đau tình. Tháng 7-1954, Lưu được điều về tăng cường cho viện K43 ở Thanh Chương (Nghệ An). Hôm chỉ còn 3 ngày nữa là hết thời gian công tác ở đây để ra Hà Nội, anh Nguyễn, đồng nghiệp của Lưu mới hỏi:

- Lưu này! Công tác 4 tháng ở đây, cậu có thấy o nào “được” không?

Tưởng anh hỏi cho vui, Lưu đáp liền:

- Nhiều người được lắm anh ơi! Nhưng chỉ có o Nhu là “được” nhất! Nhưng em chỉ công tác ở trong này vài tháng, yêu rồi chẳng lấy được nhau, lại làm khổ người ta.

Nhưng anh Nguyễn quá nhiệt tình, anh nói:

- Yêu mà không dám nói là hèn! Để tớ bố trí cho hai đứa gặp gỡ mà tìm hiểu.

Ngay ngày hôm sau, không hiểu anh “mai mối” thế nào mà họ có buổi gặp gỡ “tìm hiểu” trong một cái lán. Nhu năm ấy mới 17 tuổi nhưng đã vào bộ đội là “thiếu sinh quân” từ năm 14 tuổi, cô quê ở Diễn Châu (Nghệ An), bố bị giặc giết lúc cô mới 2 tuổi, là người em gái nhỏ nhất đội điều trị. Hai người gặp nhau trong lán, nói là tìm hiểu nhưng câu chuyện cũng chỉ quanh quẩn hỏi thăm tình hình… công tác. Đến nỗi sau bữa đó, anh Nguyễn ngán ngẩm lắc đầu bảo Lưu:

- Tìm hiểu gì mà cứ như… sinh hoạt chi bộ. Tao “rình” ở ngoài, muỗi đốt sưng cả chân.

Tối cuối cùng để ngày mai Lưu lên đường ra Hà Nội, hai đứa hẹn nhau ở con đường gần đơn vị. Câu chuyện vẫn ngượng ngùng. Song dường như ông trời đã xe duyên. Đang ngồi tâm sự thì… trời đổ mưa rào. Hai người choàng chung một chiếc áo mưa. Họ xích lại gần nhau hơn. Lưu dù dang dở mối tình đầu nhưng thật ra anh cũng chưa một lần cầm tay con gái. Anh cứ lúng túng như gà mắc tóc. Mãi đến lúc sắp chia tay anh mới nói: “Cho anh hôn một cái nhé” rồi vội vã hôn lên má người yêu và ba chân bốn cẳng chạy về cho kịp giờ điểm danh. Chia tay…

Với Nhu, cái hôn vội vã như một lời ước hẹn. Cô tin, và đợi chờ. Suốt hai năm liền, họ vẫn liên tục thư từ cho nhau. Ban đầu hẹn “tuần một lá thôi để còn công tác”. Nhưng nhớ quá, hầu như tuần nào họ cũng viết cho nhau từ 2 đến 3 lá thư.

Mãi đến cuối năm 1956, Lưu được nghỉ phép. Anh đi tàu vào Nghệ An, định chỉ báo cáo tổ chức chuyện của hai người. Nhưng vào đó, thấy mọi người khuyên: Thời chiến, nên tổ chức cho nhanh gọn. Thế là cưới luôn…

Cưới nhau rồi, phải mất 4 năm xa cách, năm 1960, ông báo cáo Cục quân y xin cho bà ra viện 110 công tác. 5 năm sau, ông lại lên đường vào Nam. Rồi bà cũng được điều động vào Nam, phải gửi 3 con nhỏ ở nhà cho chị em trong viện nuôi giúp. Năm 1969, bà được trở lại viện 110. Đất nước giải phóng, ông bà mới được đoàn tụ sau gần 20 năm, hội ngộ rồi lại chia ly...

Trước khi về hưu, ông là Viện trưởng viện quân y 110; bà là cán bộ trong viện; nhưng hai ông bà sống rất thanh đạm. Bà kể:

- Tôi làm đủ thứ: nuôi lợn gà, đi buôn chuyến, cuốn thuốc lá, làm bánh cuốn… để nuôi con cái trưởng thành và xây nhà. Cái nền nhà gạch hoa kiểu cũ này cũng nhờ bán lợn mà làm được. Bây giờ có nhiều loại gạch men đẹp, các con tôi cứ bảo để chúng thay cho ba mẹ nền nhà mới. Nhưng tôi không cho.

Nghe tôi hỏi chuyện ông dày công sưu tầm những bức thư tình thời chiến để in sách, ông cười:

- Tình yêu thời chiến càng gian khổ càng son sắt, càng cay đắng càng mặn nồng… Những bức thư ấy biết đâu sẽ giúp các bạn trẻ hôm nay khi yêu…

Ông cười, bà cũng cười theo. Mặt họ rạng ngời niềm vui, hạnh phúc. Ánh nắng chiều sau cơn mưa làm khung cửa như bừng sáng. Ngoài kia, ai đang ca lên khe khẽ…

Bài và ảnh: Nguyễn Vũ Hoàng