Ông nội tôi vốn là người trọng tình, trọng nghĩa, nên sau ngày giải phóng Điện Biên được xuất ngũ về quê, ngoài chiếc ba lô đã bạc màu, sờn rách, ông còn mang theo một cây sấu nhỏ từ Điện Biên về trồng kế tiếp ngay trong vườn nhà, nơi có khóm tre đang vươn lên tươi tốt. Suốt hơn nửa thế kỷ qua, ông tôi nâng niu, chăm sóc, bảo vệ cây sấu và khóm tre như giữ gìn báu vật…

Ông kể, ngày mới hành quân lên Tây Bắc, đóng quân ở bản Noọng Nhai, đơn vị ông luôn đón nhận được sự thương yêu đùm bọc của bà con dân bản. Hôm đó, tiểu đội ông làm nhiệm vụ xây dựng trận địa để chuẩn bị đánh chiếm đồi Him Lam, mọi người ai nấy đều mệt nhoài, tuy đói bụng nhưng nhìn thấy cơm cũng chẳng muốn ăn. Thương nỗi vất vả của người chiến sĩ, mế Lò Thị Nhài (người bản Noọng Nhai) đã chuẩn bị một bữa cơm đặc biệt, có cả canh chua nấu bằng quả sấu với cá lầm đất bắt ở dưới suối. Bữa cơm hôm ấy, mọi người ai cũng cảm thấy ngon miệng và ăn được nhiều. Thấy các chiến sĩ thích ăn canh chua, mế Nhài bảo: “Ở ngoài vườn mế đang ươm nhiều cây sấu nhỏ, khi nào giải phóng Điện Biên, nếu các con thích, mế sẽ bứng cho đưa về xuôi mà trồng”. Nhưng chỉ sau ít ngày, thực dân Pháp đã điên cuồng ném bom tàn phá bản Noọng Nhai, giết chết 444 người dân vô tội, trong đó có cả mế Lò Thị Nhài. Kết thúc chiến tranh chống Pháp, khi về quê, ông tôi có ghé thăm bản Noọng Nhai, thấy cảnh hoang tàn, đổ nát, chợt nhận ra trong vườn vẫn còn thưa thớt mấy cây sấu nhỏ do mế Nhài ươm ngày nào, giờ đây đã lên cao được hơn một gang, trong lòng ông bỗng trào dâng nỗi xúc động. Ông nhẹ nhàng bứng cây sấu nhỏ đúc vào bầu, rồi cho vào cóc ba lô. Ngồi trên xe, sẵn bình tông nước suối, cứ cách một giờ đồng hồ, ông lại ngậm một ngụm nước phun vào ngọn cây cho lá tươi xanh.

Minh họa: Mạnh Tiến

Tuổi của cây sấu cũng bằng tuổi của bố tôi. Sau hơn 10 năm, cây sấu do ông tôi trồng đã vươn cao bằng nóc nhà, khi cây sấu đơm hoa, kết trái cũng là lúc bố tôi lên đường đánh Mỹ. Trong những năm chiến tranh phá hoại, ông tôi thường trẩy quả sấu cho vào bị rồi đưa lên trận địa pháo cao xạ ở đồi Thống Nhất ngay sau làng, tặng các chú bộ đội để nấu bát canh chua trong những ngày hè trực chiến nóng bỏng và đem biếu bà con trong làng chứ không bán. Tôi sinh ra khi đất nước không còn chiến tranh nên được thừa hưởng cái hương vị đặc biệt hấp dẫn của quả sấu một cách trọn vẹn.

Bước vào thời buổi cơ chế thị trường, không ít đại gia lắm tiền ở nội thành Hà Nội về Sóc Sơn, tìm đến hỏi mua cả mảnh vườn nhà tôi để xây dựng nhà hàng, khách sạn… nhưng cho dù bạc tỷ ông tôi cũng không bán-ông bảo: “Không có gì đánh đổi được cây sấu Điện Biên”.

Trước ngày tôi lên đường nhập ngũ, cô Thúy (em ruột bố tôi) mới kể cho nghe một câu chuyện thật cảm động có liên quan tới khóm tre nhà tôi. Hồi đó vào năm 1967 (tôi chưa ra đời), đế quốc Mỹ điên cuồng leo thang bắn phá miền Bắc, có một đơn vị pháo cao xạ được trên điều về đóng quân tại đồi Thống Nhất, cạnh hồ Đồng Quan, thuộc xã Quang Tiến (huyện Sóc Sơn, Hà Nội) để bảo vệ sân bay Đa Phúc (nay là sân bay Quốc tế Nội Bài). Lúc đó cô Thúy tôi là Bí thư chi đoàn, một hôm có chú bộ đội trên đồi pháo xuống làng, vào nhà tôi xin một cây tre về làm cột cờ cho đơn vị. Cô Thúy liền vác dao ra khóm tre chọn và chặt cây tre to, cao, thẳng nhất cho chú bộ đội. Vừa lúc đó, ông nội tôi từ nhà bên cạnh về, nét mặt giận dữ, ông quát:

- Thúy! Ai cho phép mày tự động chặt tre của tao. Mày có biết khóm tre này bố mày phải giữ gìn, bảo vệ cẩn thận như thế nào không?

Bỗng dưng cổ ông nghẹn lại, hai hàng nước mắt trào ra, rồi ông ra hiệu cho cô Thúy và chú bộ đội cùng ngồi xuống chiếc chõng tre kê ở dưới gốc cây mít, đôi mắt ông nhìn về xa xăm. Giọng trầm trầm, xúc động, ông kể:

- Chính khóm tre này từng là căn hầm bí mật bố đã nuôi giấu một cán bộ Việt Minh, tên anh ấy là Sơn. Đêm 18, rạng ngày 19-8-1945, anh Sơn từ trong hầm lao ra, trèo lên cây đa giữa làng để treo lá cờ đỏ sao vàng, báo hiệu cho cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền trên một vùng đất thuộc “vành đai trắng”. Nhưng không may, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, anh Sơn đã sa vào tay giặc và bị bọn lính “O-E” Nội Bài chặt đầu bêu ngay trước cổng chợ Đa Phúc. Một năm sau đó, căn hầm anh Sơn ở đã mọc lên một cây tre, rồi sau này cứ sinh sôi, nảy nở thành khóm tre tươi tốt. Sau lần ấy, bố gia nhập quân đội, lên Tây Bắc chiến đấu ở Điện Biên cho đến khi hòa bình, xuất ngũ về quê. Để tưởng nhớ công ơn người cán bộ Việt Minh năm xưa, bố đã phải chăm sóc, bảo vệ khóm tre này trong suốt mấy chục năm qua như giữ gìn một kỷ vật vô giá.

Kể đến đây, như hiểu hết được sự việc vừa mới xảy ra, ông nội tôi bỗng sôi nổi, vui vẻ hẳn lên:

- Ai chứ chú bộ đội cần tre để làm cột cờ thì lão đây cho cả khóm.

Sau đó, cô Thúy và chú Vinh (chú bộ đội xin tre nhà tôi) đã yêu nhau. Tình yêu của họ thật chân thành giản dị, mang đầy ý nghĩa sâu xa của mối tình đoàn kết quân-dân gắn bó.

Hôm anh em thanh niên của xã lên đường nhập ngũ, cả cô Thúy và chú Vinh cũng có mặt tiễn đưa. Nắm chặt tay tôi, cô Thúy căn dặn: “Con vào bộ đội gắng hoàn thành nhiệm vụ để xứng đáng với truyền thống cha ông và gia đình”. Tôi vào bộ đội, luôn mang theo trong mình câu chuyện cây sấu Điện Biên và khóm tre tình nghĩa…

Bút ký của NGÔ VĂN HỌC