Đã 16 năm nay, mang bên mình “bộ bát đũa thiêng”, ông Nguyễn Đức Phổ ở thôn Hạ, xã Phù Lưu Tế (Mỹ Đức – Hà Nội) lặng lẽ đi tìm được hơn 110 phần mộ đồng đội và đưa các anh về với gia đình, quê hương. Ông vẫn đi tiếp...
 |
Ông Nguyễn Đức Phổ - người giữ bộ bát đũa thiêng và hành trình đi tìm được 110 hài cốt đồng đội trong 16 năm ròng.
|
Kỷ vật vô giá và lời hứa với đồng đội
Tháng 7-1968, vừa tròn 21 tuổi, chàng thanh niên Nguyễn Đức Phổ viết đơn tình nguyện lên đường đi đánh giặc. Tháng 12-1968, ông về Tiểu đoàn 96 (Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên).
Sau ba lần bị thương, năm 1974, ông Phổ được xuất ngũ. Hai mảnh đạn còn nằm trong cánh tay trái không thể lấy ra cùng vết thương ở chân phải liên tục hành hạ ông. Trong hành trang ông mang về, có một đôi đũa mun và một chiếc bát sứ. “Có một lần, nhóm bạn thân chúng tôi gồm năm người ngồi đọc thư cho nhau nghe dưới hầm mà đạn pháo của Mỹ giã trên đầu không dứt. Lần đó, bộ đội ta hi sinh nhiều mà hầu hết chưa kịp ăn cơm... Chúng tôi đã nhờ dân bản mua hộ một cái bát, một đôi đũa để ngày rằm, lễ Tết xới cơm mời đồng đội về ăn cùng. Hôm đó, những người còn sống hẹn với nhau khi chiến tranh kết thúc, ai may mắn sống sót thì bằng mọi giá phải giữ chiếc bát và đôi đũa, mang về báo tin cho gia đình để người thân được chạm vào kỷ vật, coi như linh hồn các anh được theo về…”.
Trong tiểu đội, chỉ ông Phổ sống sót trở về. Ông đặt chiếc bát và đôi đũa lên bàn thờ. Cứ mỗi lần thắp hương, kỷ vật đó cứ xoáy vào tâm can ông. Ông Phổ còn lưu giữ một cuốn sổ ghi rõ nơi hi sinh, địa điểm, tên tuổi, quê quán của 200 liệt sĩ. Giở cuốn sổ lưu niệm mà bốn người bạn để lại bút tích, ông rưng rưng: “Chưa đưa được các đồng đội về an táng tại quê nhà, lòng tôi chưa yên. Nhưng nếu chỉ mang cái bát và đôi đũa này về gia đình họ thì thật vô duyên quá, mà cũng chẳng ai tin…”.
Nhờ chú, cháu không còn mang tên “Hận”
Năm 1993, con cái đã lớn, ông trở lại chiến trường xưa sau khi bán một lứa lợn và sáu lứa kén tằm là tài sản lớn nhất của gia đình. Vào Phú Yên, ông Phổ may mắn gặp lại những đồng đội như: Khánh, Diệu, Trà, An… Họ gặp nhau và ôm nhau khóc. Hôm sau, những người cựu binh chân đã mỏi, lưng đã còng, băng rừng cả buổi để đến thôn Văn Hòa, xã Sơn Long (Sơn Hòa – Phú Yên), nơi đơn vị từng đóng quân.
Đến nơi, cả thôn vẫn còn nhớ và gọi đúng tên từng người một. Ông gặp chị Bốn - vợ của đồng đội mình là liệt sĩ Kiều Văn Tẩy (hi sinh năm 1974, quê ở Quốc Oai, Hà Tây). Chị Bốn vừa khóc, vừa nói: “Chú Phổ! Chú đi biền biệt nơi đâu mà giờ mới quay lại”. Sau những lời hỏi thăm là đến câu chuyện đau lòng: Cháu Hận con của chị Bốn, vì không chứng minh được là con liệt sĩ, nên không được hưởng chế độ gì. Rất may, ông Phổ là người trực tiếp khâm liệm anh Tẩy. Ông ngược về Hà Tây báo cho gia đình liệt sĩ Tẩy biết. Gia đình mừng khôn xiết vội cùng ông Phổ vào Phú Yên chuyển hài cốt liệt sĩ về quê. Cháu Hận cũng được nhận họ hàng và được giải quyết chế độ con liệt sĩ. Gia đình đổi tên cháu là Hạnh, chứ không gọi là Hận nữa. Giờ đây Kiều Thị Hạnh là Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Sơn Long.
Chuyến đi đầu tiên thành công ngoài mong đợi. Ông tiếp tục viết thư báo cho gia đình liệt sĩ Hùng ở Thanh Liêm (Hà Nam). Khi ông Đoan (bố của liệt sĩ Hùng) nhận được thư, ông chạy thẳng ra ngoài đồng khoe với vợ: “Mình ơi! Thằng Hùng nhà mình về rồi đây này”. Ngay sau hôm nhận thư, ông bà tức tốc đến nhà ông Phổ. Chưa nghỉ lấy một ngày, ông Phổ lại cùng gia đình vào Phú Yên. Đến nơi, phần mộ của liệt sĩ Hùng đã được quy tập về nghĩa trang của huyện Tuy Hòa. Họ gặp ông An, đồng đội cũ - người trực tiếp quy tập ngôi mộ này. Cái khó là phần mộ của liệt sĩ Hùng được đưa vào khu mộ vô danh, việc xác định như “mò kim đáy bể”. Suy nghĩ mãi, ông Phổ mới sực tỉnh, thời còn chiến đấu anh em hay gọi liệt sĩ Hùng là Hùng “khoèo”, vì tay trái của anh hơi lệch. Gia đình xác nhận anh Hùng từng bị gẫy tay hồi nhỏ. Thế là mọi người quyết định khai quật ngôi mộ ông An đánh dấu. Ai cũng lo lắng. Rất may xương tay trái bị sùi, trùng với phỏng đoán. Gia đình liệt sĩ Hùng thử ADN thì đúng là người trong gia đình.
Ông nhớ mãi lần đi tìm hài cốt liệt sĩ Nguyễn Văn Bình (cùng quê với ông). Trong cuốn sổ của ông chỉ ghi mộ liệt sĩ Bình ở bản A Tép, huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam. Ông cùng gia đình từ huyện Hiên, băng rừng, lội suối tròn một ngày mới tới bản A Tép mới. Rồi từ bản A Tép luồn rừng thêm buổi sáng nữa mới tới phần mộ. Dọc đường đi, cái chân bị thương của ông Phổ cứ phồng rộp lên, đi một đoạn lại phải dừng lại ngâm nước. Vậy mà ông vẫn cố vào tận nơi. Tới nơi thì trời đổ mưa ầm ầm, đường bị sạt lở, sông suối đầy nước, đoàn phải nghỉ lại bản A Tép tròn 28 ngày. Chuyến đi nằm ngoài dự định, lương thực đã hết, bà con dân tộc cho đoàn gạo, thức ăn. Tình cảm quân dân thật cảm động.
Kinh tế khó khăn, gia đình neo người, những vết thương hàng ngày vẫn hành hạ, song ông Phổ chưa thể ăn ngon ngủ yên vì lời hứa với đồng đội. Bàn tay run run, ông lật từng trang sổ nhật ký của đồng đội mình: “Tôi phải đưa được các anh về dù khó đến đâu, vẫn còn gần 100 người nữa…”. Cuối năm nay, ông Phổ sẽ trở lại Phú Yên và dự kiến sẽ quy tập ba phần mộ liệt sĩ nữa. Biết Báo Quân đội nhân dân đang có cuộc vận động sưu tầm kỷ vật kháng chiến, ông rất vui nói: “Bao giờ tìm đủ hài cốt đồng đội, tôi sẽ gửi tặng các đồng chí bộ bát đũa “đặc biệt” này…
Bài và ảnh: Đức Hạnh