Anh thương binh nghèo đạp xích lô, chạy xe ôm “bỏ ống” lấy tiền làm ăn khi trở thành “đại gia” vẫn mang trong mình chất hào hiệp, sẵn sàng bỏ ra khoản tiền lớn giúp cha con người hát rong mù hay hàng trăm triệu “xóa nợ” cho bà con gặp vận rủi khi nuôi tôm... Đó là câu chuyện về anh Nguyễn Xuân Ban ở thôn Kỳ Trân, xã Bình Hải, huyện Thăng Bình (tỉnh Quảng Nam)...

Do bị thương nặng, đầu năm 1980, chiến sĩ Trinh sát Nguyễn Xuân Ban phục viên về quê. Ngày ấy, Thăng Bình mênh mông cát trắng, người dân  quanh năm lam lũ mà vẫn đói nghèo, anh quyết định nhảy xe đò vào Bà Rịa-Vũng Tàu “lập nghiệp”.

Anh Ban – “vua tôm” hào hiệp luôn miệt mài trên đồng.

Gần 10 năm phiêu dạt nơi đất khách, quê người, anh làm đủ mọi nghề, từ thợ gò hàn, phu khuân vác, đến phụ hồ, lái xe ôm, đạp xích lô... Từ những đồng tiền ít ỏi kiếm được, anh chi tiêu rất tằn tiện, hằng tháng gửi về quê một ít cho vợ con, còn lại bỏ vào ống tiết kiệm. Vốn hay thương người nên ra đường gặp cảnh éo le là anh giúp đỡ liền. Chuyện anh Ban hào hiệp giúp đỡ bố con người hát rong mù Tư Gion quê ở Mỏ Cày (Bến Tre) 2 nghìn đồng vào năm 1982, bà con phường 11 (thành phố Vũng Tàu) ngày ấy đều biết. Lúc đó, 2 nghìn đồng là khoản tiền khá lớn. Hay như chuyện anh Ban phát hiện chiếc cặp nhỏ, đựng đầy tiền ai bỏ quên, đã vội vàng đạp xích lô đem chiếc cặp đến nộp cho đồn công an gần đấy...

Rít hơi thuốc lào thật sâu, tiếng anh Ban nhỏ nhẹ: “Nếu tham lam thì tôi giấu luôn cặp tiền mang về quê cũng đủ vốn liếng làm ăn, nhưng ông bà dạy rồi, “đói cho sạch, rách cho thơm”, với lại dù nghèo khổ mấy cũng phải giữ cho được phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ!”.

Thời kỳ những năm đầu thập kỷ 90, miền quê Thăng Bình đã manh nha mô hình nuôi trồng thủy sản trên cát. Lác đác có vài hộ gia đình khấm khá nhờ nuôi tôm sú. Mất mấy đêm trằn trọc suy nghĩ,  Ban xác định ra hướng đi mới. Anh không chỉ lân la học hỏi kinh nghiệm làm ăn của các hộ trong vùng mà còn đáp xe đò vào tận Khánh Hòa, ra mãi Nghệ An tích lũy thêm kiến thức nuôi trồng thủy sản. Ban huy động thêm vốn của hai bên nội, ngoại, bạn bè; kết hợp vay vốn ngân hàng, mạnh dạn đầu tư vào 2 héc-ta mặt nước. Anh còn táo bạo mua máy bơm và gần 2.000 mét dây dẫn, lấy nước mặn từ biển về nuôi tôm sú. Chị Nguyễn Thị Thúy, vợ anh nhớ lại: “Nhờ cải tạo môi trường nước phù hợp, lựa chọn con giống tốt, đầu tư thức ăn hợp lý, vụ thu hoạch đầu tiên vợ chồng tôi trúng đậm, lãi hơn 600 triệu đồng!”. Anh Ban tiếp lời vợ: “Từ số tiền ấy, gia đình tôi trả hết nợ, phần còn lại đầu tư mua thêm vật tư, máy móc, mở rộng diện tích nuôi trồng từ một vụ nuôi lên thành ba vụ trong năm... Từ hai bàn tay trắng, anh Ban đã âm thầm vượt qua đói nghèo, vươn lên làm giàu trên chính quê hương mình...”.

Điều đáng trân trọng hơn là anh Ban không những làm giàu cho riêng gia đình mình mà còn rất nặng nghĩa với xóm làng. Ông Nguyễn Trí Toàn-một “đại gia” tôm sú của xã Bình Hải tâm sự: “Nhắc tới chú Ban thì cả làng, cả xã này ai cũng coi chú ấy là ân nhân!”. Trước đây, gia đình ông Toàn thuộc vào loại khó khăn, nhờ anh Ban hướng dẫn cách làm ăn và xóa nợ 6 triệu đồng tiền vốn nên mới được như bây giờ. Trao đổi với ông Nguyễn Thanh Minh, Bí thư Đảng ủy xã Bình Hải, chúng tôi được biết, vào những năm 2000-2001, nhiều hộ nuôi tôm ở địa phương lao đao vì mất mùa, có gia đình rơi vào cảnh nợ nần chồng chất. Hồi đó, số tiền bà con trong vùng mua chịu thức ăn, con giống tại gia đình anh Ban lên tới gần 300 triệu đồng. Cảm thông với bà con, trong cuộc họp mở rộng của xã, anh Ban công bố xóa toàn bộ số nợ đó. Chưa hết, ngày mới về quê, thấy các cháu học sinh mỗi lần đi học phải vất vả lụy đò, nên anh đầu tư gần 40 triệu đồng mua gỗ bắc 3 chiếc cầu qua sông Trường Giang. Gia đình anh còn tự nguyện hỗ trợ 100 bao xi măng, 10 triệu đồng để xây dựng nhà văn hóa thôn Kỳ Trân và làm sân bóng chuyền. Thấy bà con đi lại khó khăn, thắp sáng bằng những ngọn đèn dầu, anh Ban lại động viên gia đình trích hàng chục triệu đồng huy động lực lượng thanh niên đắp hai con đường liên thôn, xây 70 trụ điện xi măng, mua gần 500 mét dây tải điện cho bà con xóm Mới. Mấy năm qua, gia đình anh còn trích hơn 100 triệu đồng ủng hộ “quỹ vì người nghèo”, “quỹ khuyến học”, “hội trợ tang”, “ngày đại đoàn kết”...

 Giờ đây ở tuổi 55, tuy không còn sung sức, nhưng nghe tin làng trên, xóm dưới có chuyện chẳng lành là anh có mặt thăm hỏi động viên, hỗ trợ cả vật chất lẫn tinh thần. Mùa mưa lũ đến, nước ngập trắng đồng, người dân trong vùng lại thấy anh cưỡi “bo bo” đến từng nhà giúp đỡ bà con sơ tán về nơi an toàn...

Nói về chồng mình, chị Thúy rơm rớm nước mắt: “Khổ thân anh ấy, suốt một đời khó nhọc. Hết lo cho vợ con, lại lo cho dân, cho nước. Thương tật như rứa mà cứ đi hoài à!”...

Phút chia tay, anh tiễn tôi ra tận cổng làng. Ngày hạ nắng ấm, vậy mà trông nước da người thương binh hơi tái. Tôi nói với anh: “Phải nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng sức khỏe một thời gian rồi “chiến đấu” tiếp anh ạ!”. Anh cười chân tình: “Mình là Bộ đội Cụ Hồ, giặc đói giặc nghèo cũng là… giặc, đâu có giặc thì ta… cứ đi”...

Bài và ảnh: PHAN TIẾN DŨNG