“Bốn tại chỗ” - dấu ấn về một tư duy lớn
Trong ký ức của Thượng tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Huy Hiệu, những năm tháng chiến tranh ác liệt đã rèn luyện ý chí, tư duy chiến lược và bản lĩnh người chỉ huy. Nhưng cũng từ nơi trận mạc ấy, ông đã tìm thấy một bài học lớn để vận dụng vào một “mặt trận” không kém phần khốc liệt: Phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai.
Chiến tranh và thiên tai, tưởng chừng là hai lĩnh vực khác nhau, nhưng trong suy nghĩ của Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, thì đều là “giặc”, đều có thể cướp đi sinh mạng, tài sản và bình yên của nhân dân nếu thiếu sự chủ động, ứng phó kịp thời.
 |
Thượng tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Huy Hiệu. Ảnh do nhân vật cung cấp |
Từ thực tiễn tham gia chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị năm xưa, ông nhớ như in những thời điểm đơn vị phải chiến đấu trong hoàn cảnh bị chia cắt, hậu phương không thể chi viện. Có lần, nhờ sự chủ động giấu quân, dự trữ lương thực, bố trí lực lượng hợp lý nên đã vượt qua hiểm nguy, giành thắng lợi trước đối phương mạnh hơn. Những bài học ấy đã hun đúc trong ông một tư duy chiến lược: “Trong những trường hợp khẩn cấp, phải chủ động tại chỗ, không thể trông chờ từ xa”.
Sau chiến tranh, trên cương vị Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, rồi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu được Chính phủ và Bộ Quốc phòng giao nhiều trọng trách, trong đó có vai trò Phó chủ tịch Thường trực Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn, rồi Phó trưởng ban Chỉ đạo phòng, chống lụt bão Trung ương. Chính trong những năm tháng đi dọc dải đất nước hình chữ S, từ đất liền ra các đảo tiền tiêu, trực tiếp chỉ đạo ứng phó với bão lũ, thiên tai, ông thấy rõ hơn bao giờ hết: “Nếu không có sự chủ động ngay tại cơ sở, thì thiệt hại sẽ không thể tránh khỏi”.
Ký ức đau đáu ấy bắt đầu từ năm 1997, khi trận bão Linda, được đánh giá là mạnh nhất trong hàng trăm năm, bất ngờ đổ vào Nam Bộ. Khi đó, người dân và chính quyền miền Tây Nam Bộ chưa có nhiều kinh nghiệm ứng phó với bão lớn. Thiệt hại vô cùng nghiêm trọng. Là thành viên đoàn công tác của Bộ Quốc phòng, ông cùng đồng đội bay trực thăng ra mũi Cà Mau để chỉ đạo cứu hộ. Trên đường đi, máy bay suýt gặp nạn vì “vòi rồng” xuất hiện đột ngột trên vùng biển. Vượt qua hiểm nguy, ông cùng đoàn xuống tận nơi, phối hợp với chính quyền địa phương khắc phục hậu quả thiên tai.
Chỉ hai năm sau, năm 1999, một trận “đại hồng thủy” tràn qua miền Trung, từ Quảng Trị đến địa bàn tỉnh Bình Định (cũ). Lũ lên như thác, cuốn trôi làng mạc, làm tê liệt mọi tuyến đường. Thừa Thiên Huế (cũ) chìm sâu 4m nước, sân bay Phú Bài ngập, gió giật mạnh, máy bay không thể đáp.
“Tôi khi ấy là Phó chủ tịch Thường trực Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn. Cả đêm ngồi trước bản đồ, tìm mọi cách tiếp cận. Cuối cùng, tôi quyết định mở đường biển, dùng tàu cứu hộ Đại Lãnh vào Quảng Nam (nay là TP Đà Nẵng- PV)”, ông kể.
Thời điểm đó, ông cùng với Trưởng ban chỉ đạo Phòng, chống lụt bão Trung ương lúc bấy giờ là đồng chí Lê Huy Ngọ, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đã trực tiếp đi đường biển trong mưa bão để vào chỉ huy các lực lượng cứu dân.
Đoàn tàu lênh đênh giữa sóng gió cấp 9-10, rồi mất liên lạc với đất liền. Khi đó kênh VTV1, Đài Truyền hình Việt Nam phát tin “mất liên lạc với tàu Trung tướng Nguyễn Huy Hiệu”.
“Tôi nghĩ có thể mình hy sinh, nhưng nếu mình rút lui, có thể thiệt hại về người trong nhân dân sẽ không thể lường hết”, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu nhớ lại.
Đến chiều, những chiếc thuyền thúng của ngư dân lao ra, đón đoàn công tác vào đất liền. Ông lội nước đến ngang ngực, trực tiếp chỉ đạo cứu hộ, rồi lên sóng truyền hình kêu gọi cả nước chung tay.
 |
Mỗi khi có điều kiện, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu thường trở lại chiến trường xưa, thắp hương tri ân những người đồng chí đã anh dũng hy sinh. |
Đó là lúc ông cảm nhận sâu sắc nỗi đau quá lớn của đồng bào vùng lũ: Hàng trăm người mất tích, hàng nghìn nhà cửa bị cuốn trôi, lực lượng cứu hộ không tiếp cận kịp thời. Có những địa phương chủ quan, không có phương án chủ động phòng, chống thiên tai, đều thiệt hại nặng nề. Trong suy nghĩ của một người từng chỉ huy chiến đấu, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu nhận thấy: Nếu không có lực lượng, chỉ huy, phương tiện và hậu cần ngay tại chỗ, thì sẽ đánh mất thời gian “vàng” để cứu người. Một ý tưởng lóe lên: Cần một phương châm hành động toàn diện, thiết thực, phù hợp với hoàn cảnh đất nước.
Vậy là từ thực tiễn chỉ huy phòng, chống thiên tai, ông đã đề xuất phương châm “bốn tại chỗ” gồm: Chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; phương tiện, vật tư tại chỗ; hậu cần tại chỗ.
Thời điểm ấy, không phải ai cũng đồng tình. Có người còn bảo: “Thiên tai khác chiến tranh, sao có thể áp dụng giống nhau được?”. Nhưng Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu không lùi bước. Ông kiên trì bảo vệ ý tưởng trong các cuộc họp, kiên nhẫn lý giải trên cơ sở thực tiễn. Và rồi cuối cùng, Chính phủ thông qua phương châm “bốn tại chỗ”, giao cho Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn chỉ đạo thực hiện.
Từ năm 2000 đến 2003, Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn đã tổ chức hàng loạt cuộc diễn tập tại nhiều địa phương: Hải Phòng, Nam Định, Đồng Tháp, Điện Biên, Vũng Tàu… Các kịch bản mô phỏng thiên tai thực tế được xử lý kịp thời, hiệu quả, minh chứng sống động cho giá trị thực tiễn của phương châm này.
Đặc biệt, năm 2008, trận mưa lịch sử gây úng ngập trên diện rộng, gây hậu quả nặng nề cho Thủ đô Hà Nội, khiến toàn thành phố phải dồn sức chống chọi với thiên tai… Những lúc khó khăn như vậy, chúng ta mới thấy hết tác dụng của phương châm “bốn tại chỗ” mà Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu đã dày công nghiên cứu.
Năm 2009, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu chủ biên cuốn sách “Vận dụng phương châm “bốn tại chỗ” trong phòng, chống thiên tai”, được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành, sau đó nhanh chóng được tái bản để đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Không chỉ được vận dụng trong phòng, chống lụt bão, phương châm “bốn tại chỗ” sau này tiếp tục chứng minh tính đúng đắn trong các lĩnh vực khác như cứu hộ trên biển, phòng, chống cháy rừng và đặc biệt là phòng, chống đại dịch Covid-19…
Trong những ngày cả nước gồng mình chống dịch, nhiều địa phương đã áp dụng hiệu quả phương châm “bốn tại chỗ”, từ chỉ đạo, triển khai y tế, hậu cần, an sinh xã hội đều thực hiện ngay tại cơ sở, nhờ đó kiểm soát nhanh các ổ dịch Covid-19, giảm thiểu thiệt hại.
Nhà báo, Tiến sĩ Trần Bá Dung nhận xét: “Đây là một tư duy lớn, chuyển kinh nghiệm chiến tranh thành giải pháp bảo vệ cuộc sống hòa bình. Một phương châm bình dị nhưng mang tính chiến lược, được hun đúc từ thực tiễn, được kiểm chứng qua nhiều năm, nhiều vùng miền và nhiều lĩnh vực”.
Giờ đây, khi nhắc lại những đóng góp ấy, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu chỉ nhẹ nhàng: “Điều gì tốt cho dân, cho nước thì mình cố gắng làm đến cùng”.
Bảo vệ môi trường, trả nghĩa cho đất, cho người
“Ơn nghĩa đối với núi sông Quảng Trị đã vô cùng lớn lao, chẳng bao giờ trả hết, nhưng sự cưu mang của nhân dân Quảng Trị đối với những người lính giải phóng còn vĩ đại hơn cả”, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu từng nói như thế.
Suốt những năm tháng chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên, người lính Nguyễn Huy Hiệu thấm thía từng tấc đất, khúc sông, bờ suối của vùng đất Quảng Trị anh hùng. Ông gọi những con sông như Cam Lộ, Ô Lâu là “dòng sông cưu mang” - bởi không chỉ che chở, bao bọc bộ đội trong những thời khắc hiểm nghèo, mà còn nuôi sống cả đơn vị bằng tôm, cá, trai sông…
Ông cũng nhận ra một bài học lớn: Chiến tranh không chỉ gây đau thương trước mắt, mà còn để lại những nỗi đau dài lâu, âm thầm, đặc biệt là với môi trường. Chất độc dioxin mà đế quốc Mỹ rải xuống vùng đất này, đến khi chiến tranh lùi xa, vẫn âm thầm hủy hoại sức khỏe con người, làm biến dạng bao thế hệ sinh ra sau chiến tranh. Những khu rừng trơ trụi lá vì chất độc dioxin, những đứa trẻ sinh ra với hình hài không lành lặn, những người dân thời bình vẫn thiệt mạng vì bom mìn còn sót lại…, tất cả in hằn trong tâm trí người lính năm xưa.
“Tôi đã không thể cầm lòng được khi đến thăm và chứng kiến một gia đình sinh 5 đứa con thì 4 cháu không lành lặn do ảnh hưởng của chất độc da cam/dioxin, hay cảnh một gia đình có tới 4 người bị chết do bom mìn còn sót lại sau chiến tranh phát nổ… Thấy mà xót xa!”, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu xúc động.
 |
Nén tâm nhang tưởng nhớ đồng đội. Ảnh do nhân vật cung cấp |
Có những đêm, vị tướng nặng tình thức trắng suy tư vì bị ám ảnh bởi di chứng của chiến tranh để lại cho người dân trên những mảnh đất, nơi ông từng chiến đấu. Chẳng thế mà người ta đã nhiều lần bắt gặp hình ảnh Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu đứng tần ngần nhìn những mảnh vỡ còn sót lại của quả bom đã bị phá nổ. Nhưng không phải ai cũng hiểu được rằng, đó là lúc ông trăn trở, âu lo về những ẩn họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với người dân vô tội.
Ông từng thổ lộ rằng “nếu còn sống sau chiến tranh, tôi sẽ tái tạo màu xanh trên những vùng đất bom đạn”, và ông đã giữ trọn lời hứa ấy.
Khi còn công tác trên cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và đồng Chủ tịch Ủy ban Phối hợp liên Chính phủ về Trung tâm Nhiệt đới Việt- Nga, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu không ngừng kêu gọi quốc tế hỗ trợ Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh. Ông thúc đẩy chương trình nghiên cứu khử độc dioxin ở các sân bay Đà Nẵng, Phù Cát, Biên Hòa; tích cực vận động các nước tham gia rà phá bom mìn, giải cứu những mảnh đất còn “ngủ quên” trên thuốc nổ.
 |
Gặp lại những người bạn từng vào sinh ra tử nơi chiến trường xưa. |
Ông cũng trực tiếp phát động trồng rừng hồi sinh. Dự án “Màu xanh đồng bằng” do ông khởi xướng đã phủ xanh hàng trăm hec-ta ở Bỉm Sơn (Thanh Hóa) rồi đến Quảng Trị, nơi từng là “vùng trắng” bởi hậu quả chiến tranh. Với ông, mỗi cây xanh mọc lên là một sự tri ân với đồng đội, với nhân dân đã ngã xuống.
Năm 2010, ông cho ra mắt cuốn sách “Quân đội với vấn đề giải quyết hậu quả sau chiến tranh”, kết tinh từ những suy tư, hành động và kêu gọi sự đồng hành của cả cộng đồng quốc tế.
Sau khi cuốn sách này ra đời, rất nhiều nhà hảo tâm trong và ngoài nước, các tổ chức chính trị, xã hội và chính phủ các nước: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, châu Âu… thể hiện sự đồng cảm, ủng hộ Việt Nam về nhân lực cũng như kinh phí để hàn gắn vết thương chiến tranh, dù biết rằng đây là công việc nặng nhọc và vô cùng nguy hiểm. Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành “Chương trình hành động quốc gia khắc phục hậu quả bom, mìn sau chiến tranh, giai đoạn 2010-2025”. Đó không chỉ là thành quả chính sách, mà còn là sự tiếp nối từ tâm huyết của những người lính như Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, những người coi việc làm xanh đất nước là phần trách nhiệm còn lại với nhân dân, với lịch sử.
Từng đến thăm, làm việc tại 67 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, ông càng thấm: “Đất nước nào quan tâm tới môi trường, đất nước đó sẽ phồn thịnh”.
“An ninh môi trường chính là an ninh quốc gia”, ông khẳng định như thế. Ở tuổi gần 80, ông vẫn miệt mài nghiên cứu khoa học về môi trường và kiến nghị chính sách.
Với Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, suốt đời chỉ có một khát vọng: Trả nghĩa cho đất, cho người và để nụ cười trẻ thơ được tỏa sáng giữa bầu trời hòa bình.
(còn nữa)
NGUYỄN HƯỜNG
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Cuộc thi viết "Những tấm gương bình dị mà cao quý lần thứ 16" xem các tin, bài liên quan.