QĐND - Quyền công dân (QCD) và quyền con người (QCN) ở Việt Nam không phải là thành quả của cách mạng dân chủ tư sản mà là thành quả của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam nằm trong trào lưu cách mạng giải phóng dân tộc và sự phát triển của chế độ dân chủ trong thế kỷ XX. Có thể nói Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một thành quả của trào lưu cách mạng và tiến bộ của nhân loại trong thế kỷ XX.
Lịch sử cho thấy, trước khi giành được độc lập, các lực lượng cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã đứng về phe Đồng minh chống phát-xít. Ngay từ khi mới giành được độc lập (năm 1945), Nhà nước ta đã thể hiện sự tôn trọng và mong muốn Liên hợp quốc quan tâm giúp đỡ.
Sau khi giành được độc lập, lập nên chế độ dân chủ, cộng hòa, các QCD và QCN của nhân dân Việt Nam đã sớm được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới. Lịch sử Việt Nam gần 70 năm qua (1945-2013) cho thấy, việc bảo đảm QCD và QCN trong mỗi giai đoạn lịch sử có những đặc trưng khác nhau. Chẳng hạn, trong thời kỳ kháng chiến chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô và tính chất ác liệt chưa từng có nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải được đặt lên hàng đầu. Điều này khiến cho việc bảo đảm các QCD và QCN phải chịu những hạn chế nào đó, nhất là các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Mặt khác trong sự nghiệp xây dựng đất nước (từ khi thống nhất đến giữa thập kỷ 80), theo mô hình cũ về xã hội XHCN, trong đó: Về chính trị, đó là nhà nước chuyên chính vô sản; Về kinh tế, đó là kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp với 2 thành phần: Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể…, Nhà nước ta đã không tránh khỏi những hạn chế nhất định trong việc tôn trọng và bảo đảm các QCD và QCN.
Trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), việc bảo đảm QCD và QCN đã có những bước phát triển quan trọng, xét trên cả hai phương diện: Vừa phải khắc phục những sai lầm của mô hình cũ của xã hội XHCN, vừa xây dựng xã hội XHCN theo mô hình mới và hội nhập quốc tế.
Về đối nội, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về QCD và QCN như đã nói, được khẳng định là một mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, hơn nữa còn được xem là bản chất, là thước đo của sự phát triển xã hội. Kế thừa các Cương lĩnh trước đây, Cương lĩnh thông qua tại Đại hội XI khẳng định: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân do nhân dân vì nhân dân; Đảng và Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội... Cương lĩnh còn nhấn mạnh: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các QCN và QCD; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”.
Về đối ngoại, đổi mới là thời kỳ Việt Nam mở cửa hội nhập ngày càng sâu rộng vào cộng đồng quốc tế, trên các lĩnh vực, trong đó có cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con người. Cho đến nay, Nhà nước ta đã tham gia 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Việt Nam là thành viên tích cực của các tổ chức ECOSOC (Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên hợp quốc), Ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP (Chương trình Phát triển Liên hợp quốc), UNFPA (Quỹ Dân số Liên hợp quốc)... Đồng thời Nhà nước cũng là đối tác tin cậy của nhiều định chế tài chính quốc tế như IMF (Quỹ tiền tệ quốc), WB (Ngân hàng thế giới); ACB (Ngân hàng châu Á)…
Trên lĩnh vực QCN, chính sách đối ngoại của Việt Nam theo nguyên tắc nhất quán và tích cực tham gia cơ chế quốc tế về QCN. Là thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam luôn luôn tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về quyền con người và đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế trên lĩnh vực này, kể cả “Công ước chống tra tấn”. Để bảo đảm hành lang pháp lý cho hoạt động của cơ quan nhà nước và công dân, Nhà nước ta đã nội luật hóa các công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam đã tham gia. Cho đến nay, nhiều bộ luật, luật sửa đổi và luật mới được ban hành dựa trên các nguyên tắc tôn trọng con người, quyền con người. Có thể dẫn ra những luật sau: Luật Bảo vệ sức khỏe người dân (1989), Luật Giáo dục (1998), Luật Đất đai (2003), Luật Bảo hiểm xã hội (2006), Luật Phòng, chống HIV/AIDS (2006), Luật Phòng, chống tham nhũng (2005), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2007), Luật Bình đẳng giới (2011).
Việt Nam rất coi trọng cơ chế kiểm điểm phổ cập định kỳ - một cơ chế mới của Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc. Năm 2009, Việt Nam là một trong những quốc gia thực hiện sớm Báo cáo kiểm điểm lần đầu (ngày 8-5-2009). Nhiều đại biểu tham gia hội nghị đã đánh giá cao Báo cáo của Việt Nam về tính khách quan, trung thực và những sáng tạo của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện của một quốc gia nghèo. Đồng thời trong dịp này, Việt Nam cũng đã chấp thuận và thực hiện các khuyến nghị trong kiểm điểm đợt 1, nhằm tăng cường đối thoại theo cơ chế “Thủ tục đặc biệt”. Từ tháng 7-2010 đến nay, Việt Nam đã đón 4 đại diện “Thủ tục đặc biệt” của Liên hợp quốc về các vấn đề: “Dân tộc thiểu số” về “đói nghèo cùng cực và nhân quyền” về “quyền được chăm sóc y tế”. Thời gian tới, Việt Nam sẽ đón các đại diện “Thủ tục đặc biệt” về “Quyền giáo dục”, “Quyền có lương thực”, “Quyền văn hóa” như đã cam kết trong các công ước quốc tế về quyền con người, đồng thời sẽ tiếp tục xem xét đón thêm một số đại diện “Thủ tục đặc biệt” khác.
Trong quan hệ song phương, Việt Nam cũng đã tăng cường hợp tác, đối thoại với nhiều quốc gia trên lĩnh vực quyền con người. Việt Nam có cơ chế đối thoại nhân quyền hằng năm với nhiều nước, trong đó có Hoa Kỳ, EU, Thụy Sĩ… Việt Nam cũng có những đóng góp thiết thực đáng kể để tăng cường hợp tác về nhân quyền trong ASEAN, đặc biệt trong quá trình thành lập và hoạt động của Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR) và việc xây dựng Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN, được thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN tại Phnôm Pênh, tháng 11-2012.
Bảo đảm QCN đối với các quốc gia, nhất là những quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi mô hình phát triển, trong đó có Việt Nam là một tất yếu. Từ mô hình cũ sang mô hình mới của chủ nghĩa xã hội là một bước phát triển quan trọng của QCN. Trong thời kỳ đổi mới với nhà nước pháp quyền XHCN, kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, việc bảo đảm QCN được nâng cao thêm một bước. Mặc dù vậy, hiện nay, Đảng và Nhà nước ta vẫn đang tiếp tục hoàn thiện chế độ xã hội, Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định, vững chắc xã hội XHCN, đồng thời bảo đảm ngày càng tốt hơn các QCD và QCN. Chính vì vậy sau Đại hội XI, Đảng ta đã chủ trương sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi bổ sung năm 2001). Đến nay, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã có những sửa chữa, bổ sung quan trọng trên nhiều vấn đề: Từ chế độ chính trị, trách nhiệm của Đảng đến thể chế phân công phối hợp có sự giám sát quyền lực của các nhánh quyền lực. Đặc biệt lần đầu tiên trong Hiến pháp Việt Nam, QCD và QCN không những được khẳng định mà còn được đặt ở vị trí quan trọng trong Hiến pháp. Trong văn bản Dự thảo sửa đổi, “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân” được quy định ở Chương II. So với Hiến pháp năm 1992 hiện hành, đây là một chương hoàn toàn mới. Trong chương này, các chuẩn mực quốc tế về QCN cũng như các QCN về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa đã được liệt kê đầy đủ, kể cả những quyền mới như quyền về môi trường; về hiến mô, bộ phận cơ thể người; quyền hiến xác…
Không thể phủ nhận rằng, xã hội ta đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức, trong đó những suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên các cấp như Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã thẳng thắn chỉ ra. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế đối với việc bảo đảm QCD và QCN của nhân dân ta. Tuy nhiên, chúng ta có quyền tin rằng, tôn trọng và bảo vệ các QCD và QCN của nhân dân ta là bản chất của xã hội ta và sẽ ngày càng được thực hiện tốt hơn cùng với việc hoàn thiện chế độ xã hội XHCN và Nhà nước pháp quyền của chúng ta.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG. HN, 2011, tr 70, 85, 87
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG. HN, 2011, tr 85
BẮC HÀ – KIM NGỌC