QĐND - Ở vào giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, các dân tộc thuộc địa có ba phương án lịch sử: Một là chờ quân Đồng minh đến giải phóng; hai là chờ chiến tranh kết thúc, chấp nhận quy chế "quản thác", "ủy trị" của Liên hợp quốc; ba là đứng lên giành lấy độc lập dân tộc. Dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã lựa chọn phương án thứ ba - tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám, lật đổ ách thống trị của thực dân, phát-xít và phong kiến, giành lại độc lập dân tộc, đặt Liên hợp quốc và cả cộng đồng quốc tế trước một sự thật hiển nhiên: Nền độc lập của dân tộc Việt Nam đã ra đời.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử. Trong Tuyên ngôn Độc lập có đoạn: "Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp... Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa” … "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”.

Ngày 24 tháng 10 năm 1945, Liên hợp quốc (LHQ) chính thức được thành lập.

Trong 2 năm 1947-1948, công việc soạn thảo Tuyên ngôn thế giới về quyền con người  (TN) được tiến hành khẩn trương và thận trọng, trong khuôn khổ chức năng, nhiệm vụ của ủy ban nhân quyền. Ngày 10-12-1948, Bản Tuyên ngôn đã hoàn thành, được Đại hội đồng LHQ thông qua bởi Nghị quyết 217A (III). Cho đến nay, Tuyên ngôn được xem là văn kiện chính trị đặc biệt, được tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, hệ tư tưởng, trình độ phát triển, bản sắc văn hóa thừa nhận là giá trị chung của nhân loại. Ngày 10 tháng 12 hằng năm được tôn vinh là Ngày nhân quyền thế giới, được các quốc gia kỷ niệm.

So với thời điểm ra đời Bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 của Việt Nam, Bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người muộn hơn 3 năm. Mặc dù thời điểm ra đời của hai bản tuyên ngôn khác nhau, song những tư tưởng lớn giữa hai văn kiện đó lại có tính thống nhất và bổ sung cho nhau.

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người là một văn kiện quốc tế đề cập tới nhiều phương diện, từ cơ sở triết học đến chính trị và pháp lý. Điều quan trọng nhất của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người là những quy định cụ thể về các quyền và tự do cơ bản của con người. Tuyên ngôn gồm có 29 điều quy định cụ thể về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.

Đối với hầu hết các quốc gia, Tuyên ngôn đến nay được xem như luật tập quán quốc tế, được xem như một mục tiêu vươn tới của các quốc gia, dân tộc.

Tuy nhiên, ở cấp độ cụ thể hơn, Tuyên ngôn lại chưa đề cập đến quyền con người ở các thuộc địa như thế nào? Ai là người phải chịu trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ cho họ? Đây chính là một lỗ hổng lớn về chính trị của văn kiện này. Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã trả lời vấn đề trên.

Trong Tuyên ngôn Độc lập, 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của dân tộc ta trên một nền tảng lý luận và pháp lý của thời đại. Đó không phải là ở sự khác biệt mà ở sự bình đẳng của các dân tộc và quyền con người của tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế cũng phải được bình đẳng như nhau. Nói cách khác, không có sự khác biệt giữa 2 loại quyền con người ở “chính quốc” và quyền con người ở thuộc địa. Trong Tuyên ngôn Độc lập 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trân trọng trích lại “Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ” 1776; “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp 1789, trên cơ sở đó, Người khẳng định: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng..." … "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1995, t4, tr1) .

Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là “quyền tự nhiên” của các dân tộc mà cộng đồng quốc tế phải thừa nhận. Tuy nhiên, trong thực tế, không một đế quốc nào lại tự nguyện trao lại độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Muốn có độc lập thật sự, các dân tộc bị áp bức phải đứng lên giành lấy quyền đó bằng con đường đấu tranh cách mạng. Đối với các dân tộc bị áp bức, điều kiện tiên quyết của quyền con người là độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Có thể nói đây là một bước phát triển mới, có tính đột phá về lý luận và thực tiễn của quyền con người trong thế kỷ XX.

 Tư tưởng lớn này trong Tuyên ngôn Độc lập 1945 là hoàn toàn thuộc về Chủ tịch Hồ Chí Minh, thuộc về thực tiễn cách mạng Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Phải 15 năm sau khi Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam ra đời, ngày 14 tháng 12 năm 1960, Liên hợp quốc mới ra Bản “Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa” (Viện Nghiên cứu quyền con người, “Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người”. HN. 2002, tr83).

Tư tưởng gắn độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ với chế độ xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh dạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó các quyền công dân và quyền con người được tôn trọng và bảo đảm đã đi vào Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp và hệ thống pháp luật Quốc gia xuyên suốt các giai đoạn cách mạng, từ khi dân tộc ta giành được độc lập đến nay. Như vậy là đối với nhân dân Việt Nam, quyền công dân và quyền con người là do nhân dân ta đấu tranh với các thế lực đế quốc, thực dân và phong kiến mà giành lại được chứ không phải do lòng tốt, sự chia sẻ, ban phát, hoặc “khai hóa” của bất cứ “chính quốc” nào.

Tuy nhiên độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia mới là “điều kiện cần”, trong việc bảo đảm quyền con người. “Điều kiện đủ” để bảo đảm quyền con người còn phải nói đến là thể chế nhà nước có khả năng phát huy dân chủ, kiểm tra giám sát lẫn nhau và bộ máy nhà nước với đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, thông thạo công việc hay không? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nếu nước độc lập, mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì” (Hồ Chí Minh Tuyển tập, bộ 2 tập, T1. NXB ST. HN, 1980, tr369).

Ngày nay, tôn trọng, bảo đảm quyền con người đối với Đảng và Nhà nước ta vẫn đang là một nhiệm vụ lớn. Song, nhiệm vụ đó thuộc quyền và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước ta và nhân dân ta. Sự áp đặt mô hình dân chủ nhân quyền nào đó từ bên ngoài sẽ không bao giờ được nhân dân ta chấp nhận.

NGỌC THƯ