QĐND - Chia sẻ với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, ông Trần Văn Hữu, Chủ tịch Hội truyền thống Đường Hồ Chí Minh trên biển đã kể về cái “duyên” gắn bó với Đoàn tàu không số và đất nước Trung Quốc. Ông Hữu quê ở Kim Sơn, Ninh Bình. Ông là thủy thủ Đoàn tàu không số trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; sau đó đi học sĩ quan, là Thuyền phó, rồi Thuyền trưởng, Hải đội trưởng Hải đội 1, Lữ đoàn 125, Quân chủng Hải quân.

Ông Hữu cho biết, năm 1964 ông được Quân chủng Hải quân tuyển. Lúc đó ông đã là đảng viên. Khi vào hải quân, ông được chọn vào Đoàn 125. Tuy nhiên, để có vinh dự đi “B”, vài chục người được chọn phải hội tụ đủ điều kiện về sức khỏe, tinh thần và bản lĩnh chính trị để được xuống tàu. “Trước đó, trong Đoàn tàu không số, hầu hết thủy thủ là người ở miền Nam. Đến năm 1963-1964, do yêu cầu của tình hình phát triển, chúng ta có thêm nhiều tàu mới, số thủy thủ miền Nam không đáp ứng đủ. Chính vì vậy, Đoàn tàu không số tuyển thêm nhiều thủy thủ miền Bắc” - ông Hữu cho hay.

“Tháng 10-1964 tôi bắt đầu xuống tàu đi “B”. Chuyến đi diễn ra trong vòng gần hai tuần. Thời kỳ đầu tôi đi, xuất phát từ bến K15, đi thẳng vào miền Nam. Tuy nhiên sau đó, tình hình trở nên căng thẳng hơn, do địch bủa vây cộng với bão gió, biển động khiến một số tàu của ta bị lạc. Nhiều lần như vậy chúng tôi phải ghé vào các cảng của Trung Quốc nhờ bạn giúp đỡ. Bạn cung cấp thực phẩm, nước uống, thuốc men, xăng dầu, quân y. Sự giúp đỡ của phía Trung Quốc có ý nghĩa rất lớn trong việc giúp chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ những thời gian đầu” ông Hữu kể.

Ông Hữu cho biết thêm, ông đã từng ghé qua khá nhiều cảng của Trung Quốc như Hải Khẩu, Di Linh, Tam Á… Trong số các cảng đã ghé qua, cảng ông ở lại lâu nhất là cảng Hậu Thủy. Cảng Hậu Thủy, còn gọi theo phiên hiệu quân sự là cảng A2.

Kể về những ngày tháng ở cảng Hậu Thủy, ông Hữu bồi hồi nhớ lại: "Khi sang tới Hậu Thủy, chúng tôi vẫn thực hiện đầy đủ các chế độ huấn luyện, học tập như ở Việt Nam. Chúng tôi chủ yếu huấn luyện cách đánh cá, huấn luyện cách xuống hàng, thả hàng, huấn luyện các tình huống trong chiến đấu, nói chung là huấn luyện tất cả những gì liên quan tới con tàu, tới chuyến đi. Mỗi thành viên trong đoàn đều có thể làm mọi việc trên con tàu, với phương châm, giỏi một đến hai nghề, biết nhiều nghề. Trước hết mỗi thủy thủ phải bơi biển ít nhất là 5km. Ngoài ra, các thành viên thủy thủ đoàn cần rèn luyện thành thục các phương án chiến đấu, thả hàng sao cho nhanh gọn nhất, không được mắc sai lầm nào, dù nhỏ nhất".

Ông Lưu Lanh (người đội mũ) trao đổi với một cựu chiến binh bên lề Hội thảo “50 năm đường Hồ Chí Minh trên biển - Con đường của ý chí và sức sáng tạo Việt Nam”, tại Hải Phòng.

Trong những câu chuyện mà ông Hữu và những thủy thủ khác kể, tất cả họ không bao giờ quên sự giúp đỡ chí tình của phía Trung Quốc. Khi tàu ta gặp sự cố hỏng hóc, bạn giúp ta toàn bộ về kỹ thuật sửa chữa. Từ việc đơn giản nhất là việc cạo hà, gõ gỉ vỏ tàu, hai bên tổ chức những buổi làm việc chung rất vui và đoàn kết. Ngoài ra, bạn còn giúp ta đóng các con tàu chi viện cho miền Nam. Phía Trung Quốc giúp ta đóng khá nhiều tàu từ 50 đến 70 tấn cho tới 400-500 tấn. Các con tàu mà phía Trung Quốc đóng giúp ta đều theo thiết kế của phía Việt Nam. “Bạn đóng nhanh lắm, làm việc rất có tinh thần trách nhiệm. Tôi đã từng làm thuyền trưởng khá nhiều loại tàu mà Trung Quốc đóng giúp Việt Nam. Nói chung chất lượng tàu tốt, rất ít khi xảy ra trục trặc dọc đường”, ông Hữu nói. Trong mạch chuyện về các con tàu, ông Hữu cho biết thêm, sau này bạn còn giúp ta đóng một số tàu chở hàng cao tốc, chạy khá nhanh trên biển, khả năng cơ động cao, linh hoạt, có thể luồn lách ở những vùng nước nông. Chiến thuật sử dụng các tàu vận tải quân sự cao tốc là đến thật nhanh, thả hàng thật nhanh, rồi nhanh chóng rút ra ngoài khơi, tránh sự theo dõi của kẻ địch, đồng thời không để lại dấu vết gì. Ngoài việc đóng mới các con tàu, phía Trung Quốc còn giúp ta cải dạng các con tàu. Từ tàu vận tải bạn cải dạng thành tàu dầu, hoặc cải dạng sang các hình thức tàu đánh cá. Nhiều tàu đã được cải dạng y hệt như tàu đánh cá với đầy đủ các loại ngư cụ, thiết bị phụ trợ cho việc đánh cá. Sự chu đáo của bạn giúp ta nhiều lần tránh được sự nghi ngờ của Mỹ-ngụy.

Kể về tình cảm của người Trung Quốc đối với các cán bộ, thủy thủ Việt Nam, ông Hữu cho biết: “Bạn chu đáo với mình lắm. Bạn bảo đảm lương thực, thực phẩm, tổ chức căng-tin phục vụ các nhu yếu phẩm. Những ngày thứ bảy, chủ nhật bạn đưa hàng hóa nhu yếu phẩm vào phục vụ từng cán bộ, thủy thủ của các tàu. Khi đi nhận tàu ở xưởng đóng tàu Trạm Giang, trong lúc rảnh rỗi, bạn dẫn chúng tôi vào các bách hóa tổng hợp để mua thêm một số nhu yếu phẩm. Điều chúng tôi đặc biệt ấn tượng không phải là các loại hàng hóa mà là sự trật tự của những hàng dài người dân sẵn sàng dạt ra hai bên, nhường vị trí mua hàng cho chúng tôi khi được thông báo: Đây là cán bộ Việt Nam sang công tác”.

Sự tận tình, chu đáo và rất có trách nhiệm còn được thể hiện trong những lúc khó khăn nhất. Ông Hữu cho biết, hầu hết các tàu của ta khi ra khơi đều được bạn dẫn đường qua các luồng lạch trong vùng biển của bạn, đến một vị trí tương đối thuận lợi bạn mới quay về. “Khi tàu của ta trên đường về bị mắc cạn, bạn ra tận nơi giúp ta kéo tàu, hoặc sửa chữa...”, ông Hữu kể.

Thời gian trôi qua đã lâu nhưng đối với ông Lưu Lanh, một cựu chiến binh Đoàn tàu không số, ấn tượng sâu sắc với sự chu đáo, tận tụy của các bác sĩ, y tá Trung Quốc ở Bệnh viện Hải quân, Hải Khẩu vẫn còn nguyên. “Ngoài chế độ thăm khám cẩn thận, việc ăn uống cũng bảo đảm rất tốt. Thậm chí, bộ đội Việt Nam còn có phần được ưu tiên hơn chính Hải quân Trung Quốc”, ông Lanh kể.

Mặc dù nhận được nhiều sự quan tâm chu đáo của bạn, tuy nhiên để bảo đảm bí mật tuyệt đối cho Đoàn tàu không số và Đường Hồ Chí Minh trên biển, các nguyên tắc về giao tiếp phải tuyệt đối tuân thủ theo chế độ quân sự. Mọi sự giao tiếp đều qua phiên dịch và phải được phép của chỉ huy. Biết được điều này, phía Trung Quốc cũng rất quan tâm tới đời sống văn hóa của thủy thủ Đoàn tàu không số. Gần như tuần nào bạn cũng tổ chức chiếu phim phục vụ cán bộ chiến sĩ của ta ở Hậu Thủy. Tuần nào không có phim thì thay vào đó là văn nghệ, thể thao như bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ. Các hoạt động được đặc biệt tăng cường vào các ngày lễ, tết của cả ta và bạn.

Ông Lanh kể thêm một tình huống vui vì chuyện không hiểu ngôn ngữ của nhau: “Trong một chuyến chuẩn bị vào Nam, khi ghé qua cảng Hải Khẩu lấy lương thực, phía bạn hỏi ta, cần gì để bạn cấp. Do không có phiên dịch, bạn cũng không hiểu ta muốn ăn gì. Chẳng ai biết phải diễn đạt thế nào. Vẽ ra cũng không hiểu. Muốn ăn thịt gà, vẽ con gà bạn cũng không hiểu. Một thủy thủ mới nghĩ ra cách dùng “ngôn ngữ cơ thể”. Tự cầm cổ mình, cứa mạnh một cái, rồi kêu "coóc, coóc", bạn hiểu ý ta. Tuy nhiên do giọng của thủy thủ đó quá khàn, phía bạn lại hiểu nhầm ý là muốn ăn thịt ngỗng”.

Được hỏi về cảm xúc sau những gì đã trải qua gần 50 năm trước, ông Lanh, ông Hữu, hay ông Tuyển đều khẳng định: "Họ giúp đỡ mình, mình phải biết đến điều đó. Nhiều lúc rảnh rỗi ngồi nhớ lại những ngày tháng sống và thực hiện nhiệm vụ ở Trung Quốc thấy nao lòng lắm, nhớ lắm chứ. Giá có một lần trở lại để thăm và cảm ơn Chính phủ, nhân dân Trung Quốc thì tốt biết mấy...".

Trung Quốc trong ký ức thủy thủ Đoàn tàu không số (Kỳ 1)

Nguyễn Hòa