Bài 4: Tay đóng tàu, tay bắn máy bay
QĐND - Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng (nay là Tổng công ty đóng tàu Bạch Đằng) cũng là một “địa chỉ đỏ” đóng tàu không số. Ông Phạm Văn Đính, một cán bộ kỳ cựu của nhà máy cho chúng tôi xem cuốn sổ kế hoạch sản xuất mà ông còn lưu được từ thời chống Mỹ. Những dòng chữ: “Năm 1965, 1966... thuyền biển TM-2” sau mấy chục năm vẫn xanh nét mực Cửu Long, xanh như dòng Bạch Đằng mà nhà máy 3 lần Anh hùng mang tên gọi...
“TM2” - đơn hàng đặc biệt
Mùa hè năm 1965, không khí lao động ở Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng đang rất hăng say, dù dịp tháng 3, máy bay Mỹ vừa đánh phá Bạch Long Vỹ. Âm mưu khóa chặt cửa ngõ lớn nhất miền Bắc của địch đã lộ rõ, không làm nản lòng công nhân. Họ hầu hết đều từng là bộ đội quân giới chuyển ngành để xây dựng nhà máy đóng tàu đầu tiên của đất nước.
Ngày 20-7-1965, sau gần một năm miệt mài, con tàu 1000 tấn đầu tiên mang tên “20 tháng 7” đã được hạ thủy, bất chấp trước đó 4 hôm, máy bay Mỹ lại đánh phá huyện Hải An. “Vậy là nước mình đã đóng được tàu 1000 tấn! Hôm đó, chúng tôi ai cũng khóc vì vui mừng. Nhưng sau niềm vui là sự căng thẳng mới. Mỹ đang đánh phá Hải Phòng ác liệt hơn, phải vừa sản xuất, vừa phòng không, sơ tán” – ông Đính hồi tưởng lại. Chỉ trong thời gian ngắn, 36 hầm lớn, gần 500 hố cá nhân bằng ống bê tông và hào giao thông đủ cho 2000 người ẩn nấp đã hoàn thành. Hàng nghìn bao cát giăng kín, che chắn máy móc. Một tiểu đoàn tự vệ, một đại đội cao xạ 40 ly và 20 ly, 4 trung đội trực thuộc, các đơn vị công binh, hậu cần, thông tin... đã ra đời. Người vào ca, người ra bãi tập.
 |
Công trường đóng thuyền biển TM2. Ảnh tư liệu. |
Nếu không có chiến tranh, có lẽ họ sẽ đóng chiếc tàu 1000 tấn thứ hai. Nhưng nhiệm vụ trọng tâm lúc trên giao lại trở về... đóng lô thuyền biển rất nhỏ, trọng tải chỉ có 50 tấn, ký hiệu “TM2”. Lúc ấy, ông Đính là Bí thư Đoàn thanh niên của nhà máy, từng biết anh em làm nhiều “hàng quân sự” nhưng ông cũng không biết “TM2” là gì, chỉ phỏng đoán “TM là thuyền máy, một loại thuyền phục vụ quân sự”. Chẳng rõ loại thuyền này có gì đặc biệt mà suốt từ năm 1965 tới năm 1972, năm nào nhà máy cũng có “đơn đặt hàng” trên giao làm loại sản phẩm này.
Ông Nguyễn Thanh Ba, Giám đốc nhà máy, người nhận nhiệm vụ trực tiếp trên giao và thường làm việc với Tư lệnh Hải quân Cao Bá Phát nhưng ông rất kín kẽ. Ông Ba cho chọn những công nhân lành nghề nhất, phẩm chất tốt nhất để vào cuộc. Ông Lê Văn Chanh, 66 tuổi, một công nhân tham gia làm thuyền, nay đã nghỉ hưu cho biết: “Thuyền được làm theo dạng thuyền buồm cổ mắt đỏ của Nam Bộ, nhưng điều làm chúng tôi ngạc nhiên nhất là nó lại được lắp máy... to quá, lên tới 225 CV”.
Ông Đính sau này mới hay, “TM2” tức “thuyền máy 2” vì trước đó ta đã nhờ nước bạn Trung Quốc làm giúp loại tàu nhỏ 50 tấn này, ký hiệu “TM1”. Tuy nhiên, tàu lắp máy quá lớn, lên tới 900 CV, khi chạy thử thì các vỏ tàu đều bị sóng đánh vặn méo như... vỏ đỗ, từng phải mang về Bạch Đằng sửa chữa. Kinh nghiệm xương máu được rút cho TM2, phải vừa đảm bảo cơ động nhanh lại vừa ngụy trang khéo để có thể xen lẫn vào các thuyền đánh cá trên biển, che mắt địch. Buồm là thứ phải thường xuyên cải tiến. Ban đầu, theo thuyền “mắt đỏ” có hai buồm cột cao. Ra biển chạy thử, tình huống gặp địch, thuyền chạy nhanh, buồm căng gió quá lật nhào. Lại phải cải tiến hạ cột buồm thấp, rồi cải tiến hệ bánh lái chìm, chống lắc. Vẫn chưa ổn, lại bỏ tiếp một buồm, rồi cải tiến ca-bin, chỉ để lại một buồm ở giữa. Tàu chạy ngon lành, lại còn tiết kiệm được hàng chục tấn sắt, thép, que hàn.
Đóng tàu trên núi, trên hè phố
Cuối năm 1965, Mỹ liên tục đánh phá Hải Phòng. Địch càng đánh, chiến trường xa càng gọi, khối lượng công việc nhà máy được giao tăng lên gấp 2,5 lần. Đã thế, họ lại còn phải di dời nhà máy. Công trường bây giờ nằm rải rác ở nhiều nơi: Ré, Bắc Sơn, Kiền Bái, Lâm Xá... Có lúc, tàu thuyền được đóng ngay trên... hè phố, trước cửa Viện Quân y 7 và UBND thành phố.
Lâm Xá, một làng nghèo ven núi thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh trở thành “cơ sở 2” bí mật của nhà máy với mật danh “BĐ2”. Cùng với Lâm Xá, còn có thêm BĐ3 ở xã Tân Sơn, huyện An Hải. Ông Lê Văn Chanh nhớ lại: “Lâm Xá nằm ven núi đá, cạnh hang sâu gọi là hang Son, lòng sông hẹp, phải bạt núi tạo mặt bằng. Xa vậy mà máy bay địch vẫn nhòm ngó ngày đêm, phải trùm bạt kín mà làm. Khói bụi, khói hàn, bụi sắt như đặc quánh không gian chật hẹp”. Một điều trùng hợp kỳ diệu, nơi sơ tán này cũng chính là cơ sở đóng tàu của doanh nhân Bạch Thái Bưởi năm xưa.
 |
Ông Phạm Văn Đính (giữa) kể lại chuyện đóng tàu không số TM2 năm xưa. Ảnh: Văn Minh |
Bà Cao Thị Ngoãn, nguyên là thợ hàn vẫn chưa quên cảnh đi sơ tán. Khu tập thể tạm bợ dựng cách công trường 5-7km, công nhân phải đi bộ đi làm. Làm việc 3 ca, nhiều người cơm nắm, cơm đùm ngủ lại luôn tại công trường. Nước ăn, uống phải chở từ nhà máy sang nhưng nhiều hôm không có, phải múc cả nước sông lợ, ngang phè nấu cơm. Vậy mà không một lời kêu ca, ai cũng lao vào làm việc sao cho thật nhanh!
Ông Hồ Doãn Tế cho biết, tàu thường hạ thủy bí mật, chạy ra Đồ Sơn. Bộ trưởng Bộ GTVT Phan Trọng Tuệ từng về chỉ đạo trực tiếp thử thuyền TM2. Mỗi lần về, ông thường đi thẳng ra công trường ngay. Buổi trưa về nhà khách nghỉ tạm, ông thường lấy một... hòn gạch, lót giấy báo lên gối đầu rồi nghỉ trưa ngon lành như một công nhân.
Đóng tàu trong khói bom
Tại nhà máy chính ở Hải Phòng, tiểu đoàn tự vệ vẫn vừa chiến đấu, vừa sản xuất. “Trưa ngày 29-6, địch dùng 25 chiếc máy bay, chia thành nhiều tốp bay vào đánh phá Sở Dầu. Cả nhà máy nổ súng. Xế trưa, hệ thống làm lạnh của pháo 37mm bị tắc, nòng pháo nóng bỏng, phải tạm dừng bắn. Các xạ thủ còn đang loay hoay thì chị Lê Thị Hòa, công nhân phân xưởng trang trí bất ngờ dũng cảm từ hố cá nhân lao lên cởi ngay chiếc áo đang mặc, nhúng nước đắp lên nòng, cứu pháo. Nhiều công nhân đang trú ẩn cũng lao lên, tiếp đạn cho trận địa. Ngày hôm ấy, nhà máy đã phối hợp với các đơn vị khác, diệt liền 3 máy bay Mỹ” – ông Đính kể.
Nhà máy đứng vững nhưng địch đã phát hiện ra cụm hỏa lực mạnh. Chỉ trong vòng một tháng, chúng đánh phá nhà máy 15 lần. Tuy nhiên, nhịp sống không dừng lại. Họ vẫn thay nhau người cầm súng, người cầm búa. Những con tàu vẫn cứ ra đời.
Một ngày cuối tháng Tám, thành phố triển khai đón đoàn đại biểu Cu-ba, du kích Pa-le-xtin, Đảng Cộng sản Nhật Bản... tới thăm nhà máy. Sợ địch ném bom, ta phải cho đoàn đến thăm lúc 5 giờ sáng. Sau một đêm quần nhau với địch, tự vệ chưa kịp thay ca. Đập vào mắt mọi người là cảnh trận địa tan hoang, đổ nát và một vài công nhân quần áo bê bết đất cát, mồ hôi, khói súng. Đoàn khách quốc tế lặng đi. Họ nghĩ mọi người đã hy sinh hết bởi trận bom đêm qua. Hồi lâu, nữ nhà báo của Đảng Cộng sản Pháp Ma-đơ-len Rip-phô mới thốt lên hỏi một câu “tế nhị”:
- Các đồng chí vừa thay ca phải không? Mọi người đâu cả rồi?
Lúc này, chị em tự vệ mới chạy ùa lại, ai nấy đều cười rất tươi. Một chị trả lời:
- Chúng tôi không ai chết cả! Chỉ sạt lở vài công sự thôi!
Khách ồ lên cảm phục. Họ chạy lại nắm tay, ôm lấy những nữ tự vệ bé nhỏ, trào nước mắt vui mừng, xúc động. Sau đó, đoàn khách và nữ tự vệ kéo nhau ra sân bóng chuyền, chơi giao hữu một séc, cho đến khi cấp trên buộc phải dừng cuộc chơi kẻo máy bay Mỹ đến “hỏi thăm”. Lúc chia tay, nữ nhà báo Pháp đã kịp thu lượm được một mảnh xác máy bay Mỹ trong hành trang của mình...
Để chi viện cho các cơ sở sơ tán BĐ2, BĐ3, một con tàu kéo 225CV được huy động vận chuyển nước ngọt, vật tư. Vậy mà tàu cũng bị máy bay Mỹ theo dõi, 5 lần săn đuổi, đánh phá. Anh Phạm Duy Hải, thợ đốt lò của tàu cuối tháng 6 đi chở nước ngọt, vật liệu ra BĐ2 thì gặp bão lớn, nhiều tấn vật liệu bay xuống sông. Là thợ đốt lò nhưng anh cũng lao xuống sông, lặn ngụp nhiều giờ cùng đồng đội cứu vật liệu. Đêm 28-7, tàu nhổ neo về nhà máy thì nồi hơi có ống bị thủng. Chưa kịp sửa, giám đốc lệnh phải đi ngay cứu tàu cuốc TC10 bị bom Mỹ đánh ở Sông Luộc (Hải Dương). Hải được thuyền trưởng cho hoãn, nghỉ phép về quê cưới vợ. Đã gói ghém ba lô xong, anh lại lên gặp thuyền trưởng xin ở lại. Cái sự cố lò hơi làm anh lo lắng, vì anh là thợ đốt lò chính.
Suốt hai ngày đêm, mặc cho nồi hơi nóng hầm hập, anh chui ra chui vào liên tục xử lý các lỗ thủng. Hải và anh Có máy trưởng đều chảy máu tai, máu mũi vì áp suất mà việc xử lý chưa xong. Thời gian thì quá gấp. Không chần chừ, Hải dũng cảm lấy bao tải nhúng nước quấn quanh người chống nóng, rồi nằm trên ván để anh em khiêng lên, đẩy vào lò, tiếp tục sửa chữa. Phải mấy chục lần như thế, anh đã buộc các lỗ thủng phải “câm nín”. Sáng 30-7, tàu đến Sông Luộc thì bị máy bay Mỹ phát hiện, đánh phá. Một loạt tên lửa làm sập ca-bin. Thuyền trưởng lệnh cho các thủy thủ rời tàu. Đã chạy lên tới mặt boong, chợt nhớ phải xả van nồi hơi đang chữa dở để đảm bảo an toàn cho tàu, anh chạy trở lại, xả van nước. Lúc anh chạy lên thì không may, một máy bay đi sau tiếp tục bắn phá, anh đã anh dũng hy sinh và con tàu được “cứu sống”.
Anh Hải ngã xuống “kích nổ” bao trái tim cống hiến. “Hiến kế chống Mỹ”, “Địch đánh càng mạnh, sản phẩm càng nhanh” – hai khẩu hiệu, hai phong trào ra đời. Những tháng còn lại của năm, họ đã làm xong toàn bộ chỉ tiêu 16 con thuyền TM2 trước thời hạn, chuyển sang đóng nhiều cầu phao, tàu lớn khác.
Sau này, Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng đã 3 lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng, trong đó hai lần Anh hùng LLVT nhân dân. Ngày nhà máy nhận danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân lần thứ hai, Đại tướng Đoàn Khuê, khi đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã xúc động phát biểu: “Các đồng chí đã bất chấp bom đạn của kẻ thù, kiên cường bám trụ để sản xuất phục vụ giao thông vận tải thời chiến. Những chiếc tàu không số, tàu phá thủy lôi, tàu phá bom từ trường, cầu cáp, cầu phao công binh... đã thực sự tiếp thêm sức mạnh cho bộ đội và Hải quân nhân dân Việt Nam làm nên những sự tích thần kỳ rạng ngời lịch sử”.
------------------
Bài 1: Blog kỹ sư tàu biển và bí mật “Chồn Alpha”
Bài 2: Người “tạo hình” cho tàu không số
Bài 3: “Lò tàu sắt” bên dòng Tam Bạc
Bài 5: Đóng tàu “có số” cho lữ đoàn “không số”
Ghi chép của NGUYÊN MINH