Sáng 5-6, Quốc hội đã nghe Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày tờ trình dự án Luật Dân quân tự vệ và Chủ nhiệm Uỷ ban quốc phòng và an ninh của Quốc hội Lê Quang Bình trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật này.
|
 |
|
Đại tướng Phùng Quang Thanh trình bày tờ trình dự án Luật Dân quân tự vệ |
Theo Tờ trình dự án Luật dân quân tự vệ, tại Điều 9 Dự thảo Luật quy định: Thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ nòng cốt là 4 năm (giảm 1 năm so với Pháp lệnh Dân quân tự vệ năm 2004); đối với Dân quân nòng cốt ở các xã biên giới, hải đảo, miền núi, vùng cao, thời hạn này được kéo dài không quá 6 năm. Theo Pháp lệnh Dân quân tự vệ năm 2004, thời hạn nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ nòng cốt là 5 năm, thời gian huấn luyện cần thiết cho Dân quân tự vệ năm thứ nhất là 10 ngày; trong 4 năm còn lại, Dân quân tự vệ cơ động là 40 ngày, Dân quân tự vệ tại chỗ là 28 ngày. Dự thảo Luật quy định thời hạn nghĩa vụ vẫn phải bảo đảm được tổng thời gian huấn luyện cần thiết trong thời gian thực hiện nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ nòng cốt là 4 năm từ 38 đến 50 ngày.
Về chế độ, chính sách đối với Dân quân tự vệ biển hoạt động bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo, Điều 51 Dự thảo Luật quy định đối tượng này được hưởng tương đương với dân quân thường trực, mức tiền ăn quy định tương đương mức tiền ăn của chiến sỹ hoạt động trên tàu cấp 1 của Bộ đội Hải quân. Theo giải trình của Chính phủ: Việc huy động lực lượng Dân quân tự vệ biển tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo không diễn ra thường xuyên, mà chỉ diễn ra trong thời gian ngắn khi có tình huống xảy ra. Dân quân tự vệ biển hoạt động đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển đảo của đất nước thuộc loại lao động đặc biệt như nhiệm vụ chiến đấu, trong đấu tranh diễn ra gay go, quyết liệt, dễ bị rủi ro. Chính phủ đề nghị không nên đồng nhất với chế độ chính sách của Dân quân tự vệ thường trực.
Về tổ chức biên chế, trong Pháp lệnh hiện hành, Ban Chỉ huy quân sự cấp xã có 3 chức danh: Chỉ huy trưởng, Chính trị viên, Chỉ huy phó, trong đó Dự án Luật thêm một chức danh Chính trị viên phó.
Việc tổ chức lực lượng Tự vệ trong các doanh nghiệp (Điều 19 Dự thảo), Ban soạn thảo đưa ra 2 phương án, Chính phủ chọn phương án 1, quy định cụ thể như sau: Doanh nghiệp có tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, đã hoạt động ổn định từ 12 tháng trở lên, quy mô lao động phù hợp thì phải tổ chức lực lượng Tự vệ; Doanh nghiệp chưa có tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoạt động ổn định từ 12 tháng trở lên, quy mô lao động phù hợp, có yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo kế hoạch của cơ quan quân sự địa phương thì việc tổ chức lực lượng Tự vệ do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định…
Theo Dự thảo Luật, nguồn ngân sách bảo đảm cho hoạt động Dân quân tự vệ phải từ các nguồn: Ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, kinh phí bảo đảm của các doanh nghiệp, quỹ quốc phòng và các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật. Trang phục của lực lượng Dân quân tự vệ được Chính phủ đề nghị kế thừa quy định của Pháp lệnh hiện hành.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng An ninh trình bày trước QH cơ bản nhất trí với dự thảo Luật. Luật Dân quân tự vệ ra đời sẽ khắc phục những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện Pháp lệnh Dân quân tự vệ và xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trong thế trận khu vực phòng thủ vững chắc của địa phương; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân nhằm bảo vệ giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở; sẵn sàng chiến đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phòng thủ dân sự ở địa phương trong mọi tình huống, sẵn sàng bổ sung cho Quân đội, mở rộng lực lượng khi có yêu cầu.
V.H
Theo: BPO