Kỳ ba: Vũng Rô - đêm Giao thừa năm ấy

QĐND Online - Trung tá Hồ Đắc Thạnh – Thuyền trưởng tàu không số năm xưa đã trở về cuộc sống bình dị giữa đời thường, nhưng trong ông vẫn tươi nguyên những ký ức của một thời vượt biển trên con đường huyền thoại. Và câu chuyện về “nắm đất thiêng” của cô giao liên trao cho ông trong chuyến vào bến Vũng Rô năm ấy mãi mãi là một kỷ niệm đẹp, ông luôn trân trọng, nâng niu...

Tuổi 75, ông vẫn khoẻ mạnh, giọng nói trầm và ấm; gương mặt phúc hậu, dễ gần; tác phong giản dị, cởi mở. Đó là những cảm nhận của tôi khi tiếp xúc với cựu binh Hồ Đắc Thạnh – nguyên thuyền trưởng tàu không số – người có 12 chuyến vượt biển, vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam...

Ông say sưa kể về ngày xưa với niềm tự hào... “Cuối năm 1964, sau khi thực hiện hai chuyến tàu chở vũ khí vào bến Vũng Rô thắng lợi, tôi được Tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ tiếp tục chỉ huy tàu vượt biển, đúng đêm Giao thừa có mặt tại Vũng Rô. Nhận mệnh lệnh, lòng tôi trào dâng niềm vui khó nói nên lời vì sắp trở về quê hương, được gặp lại đồng chí, đồng bào yêu dấu...

Chuyến đi đúng vào dịp Tết nên ngoài việc tiếp nhận vũ khí, theo dõi thời tiết, nắm tình hình địch, chuẩn bị hậu cần… chúng tôi còn chủ động gói bánh chưng, làm giò chả, chuẩn bị mứt Tết sẵn sàng đón xuân trên biển. Trước giờ ra khơi, tôi kiểm tra công tác chuẩn bị lần cuối. Đến khoang hàng hải, bắt gặp một thùng gỗ đậy kín, bên ngoài có dòng chữ “Quà vui Tết, đón xuân”, bên cạnh một cành đào Nhật Tân chúm chím nụ, tôi hỏi đồng chí Hồng Lỳ thủy thủ trưởng: “Thùng này có danh mục ghi trong phiếu chuyển hàng cho bến không?”. Đồng chí Phan Nhạn, máy trưởng nhanh nhảu trả lời: “Báo cáo thuyền trưởng, thùng này do tàu ta xuất phiếu thôi ạ!”. Tất cả cùng cười vang...

Buổi tiễn đưa cán bộ, chiến sỹ tàu 41 thực hiện “nhiệm vụ đặc biệt” trong đêm đông 1964 thật bùi ngùi, xúc động. Đồng chí Tư lệnh Quân chủng, Đoàn trưởng và Chính ủy đoàn căn dặn từng người chu đáo. Những nụ hôn thắm nồng, những bàn tay xiết chặt gửi gắm niềm tin. Tình cảm hậu phương làm ấm lòng cán bộ, thủy thủ trên đường vào tiền tuyến lớn miền Nam...

Ông Hồ Đắc Thạnh (bên phải, hàng trên) trước bia ghi công các anh hùng, liệt sỹ hi sinh trên tuyến đường biển huyền thoại. 

Thời tiết không thuận lợi, sau ba ngày vượt sóng to, gió lớn, luồn lách tránh các tuyến tàu tuần tiễu của địch, chiều 30 tháng Chạp, tàu 41 chuyển hướng vào bờ. Trưa hôm đó, khi chúng tôi đang dùng bữa “tất niên”, thì chiến sỹ trực canh báo cáo: “Mạn phải 30 độ, cự li 3 hải lý, phát hiện hai tàu địch di chuyển về phía Nam!”. Lệnh chuẩn bị chiến đấu được phát ra, tất cả về vị trí. Các lớp ngụy trang vũ khí được triển khai vừa che mắt địch, vừa có thể phục vụ chiến đấu được ngay.

Qua ống nhòm, tôi thấy rõ hai tàu tuần tiễu địch đang di chuyển. Phải tránh! Tôi ra lệnh cho tàu 41 chuyển hướng để tránh và tạo khoảng cách xa hơn, lúc này thời gian đã 16 giờ chiều... Sau khi xác định lại vị trí trên hải đồ, tôi lệnh cho máy trưởng sử dụng tốc độ dự bị. Tàu tăng tốc hành quân giữa ánh hoàng hôn bao trùm lên mặt biển...

Gần nửa ngày chống chọi với sóng gió, đúng 23 giờ 50, tàu chúng tôi vào tới Vũng Rô. Tôi cho thả xuồng và cử người vào bến tìm bộ phận đón. Trong lúc đang loay hoay thả xuồng thì thuyền của các đồng chí ở bến cặp mạn tàu. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, tôi ôm chặt anh Sáu Thu mà hai hàng nước mắt chảy ròng, nghẹn ngào không nói nên lời…

Giữa lúc tình cảm giữa người ở bến và chúng tôi đang dồn nén, thì đột nhiên, hàng loạt súng pháo nổ vang, những chiếc đèn dù xanh, đỏ từ đồn địch ở dốc Ba Ty phụt lên treo lơ lửng giữa khoảng trời Vũng Rô.

- Lộ rồi sao? Địch đã phát hiện tàu ta chăng? Sao không thấy động tĩnh từ phía địch?

Mọi người hồi hộp, lo lắng... Từ khoang báo vụ, chiếc đài bán dẫn vang lên lời Bác Hồ chúc Tết nghe đầm ấm, thiết tha. Giao thừa! Mùa xuân 1965 đã tới. Thời khắc trời, đất giao hòa, chúng tôi vui mừng trào rơi nước mắt... Sau khi cử lực lượng cảnh giới nắm tình hình địch, cuộc liên hoan mừng tết Ất Tỵ được thực hiện ngay trong khoang máy và hầm hàng. Rượu, thịt, dưa hành, thuốc lá chúng tôi mang theo. Cá, mực đồng bào biếu tặng được bày ra thơm lừng, càng tăng thêm hương vị đậm đà của mùa xuân bất tận.

Trong niềm vui chan chứa ấy, tôi thay mặt cán bộ, chiến sỹ tàu 41 chúc Tết các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, chiến sĩ, dân công và bà con đồng bào tại bến. Tiếng pháo tay thay pháo Tết nổ vang. Anh Sáu Thu giục cô gái ngồi bên cạnh (là giao liên của bến) thay mặt bà con địa phương chúc Tết anh em thủy thủ. Cô gái ửng hồng đôi má, ngập ngừng đứng lên: “Có Đảng, có Bác Hồ và đồng bào miền Bắc lo cho miền Nam từng khẩu súng, viên đạn, bát cơm, viên thuốc; có các anh thủy thủ vượt qua sóng to, gió lớn, đối mặt với quân thù vận chuyển hàng chi viện cho miền Nam, quê hương Phú Yên nguyện xứng đáng với nghĩa tình cao cả đó”. Nghe cô giao liên nói vậy, ai cũng nghẹn ngào, xúc động...

Cùng đồng đội về thăm Bộ Tư lệnh Hải quân.

Tối mồng một Tết Ất Tỵ, chúng tôi bốc dỡ hàng. Chiếc cầu tạm bằng cây không đủ sức cho số đông người đi lại, nên đa số anh chị em dân công phải dầm mình dưới nước chuyển hàng. Phía đèo Cả, súng địch vu vơ bắn cầm canh. Chúng đâu ngờ rằng, cách không xa là không khí làm việc khẩn trương của cán bộ, thủy thủ tàu 41 và đồng bào Phú Yên. Hàng bốc dưới tàu lên là vũ khí, thuốc men, quần áo. Hàng trên bờ xuống là khoai, sắn, bánh chưng, rượu, thịt đồng bào gửi tặng và hàng chục bao cát. Cát của Vũng Rô được chuyển xuống tàu để giữ ổn định phòng khi ra khơi gặp bão giông.

Công việc xếp dỡ hàng vừa xong, từ trong đêm tối có cô gái cầm trong tay một gói nhỏ được bọc cẩn thận bằng chiếc khăn tay trao cho tôi, giọng run run: “Bà con quê hương Phú Yên xin gửi theo tàu các anh nắm đất Vũng Rô, mảnh đất kiên cường, bất khuất. Dù giặc càn quét, lùng sục, bắt bớ, tàn sát dã man, đồng bào lên núi ăn củ mài, quả vả thay cơm nhưng vẫn một lòng, một dạ vững tin theo Đảng, theo Bác Hồ. Có súng, có đạn của miền Bắc chi viện, mảnh đất này sẽ là điểm tựa của những chiến công, là mồ chôn thây quân giặc cướp nước!”. Bùi ngùi, xúc động, cầm nắm đất Vũng Rô trong tay, tôi như muốn ôm cả đất trời quê hương Phú Yên vào lòng với tình cảm trân trọng, thiêng liêng...

Cuộc chia tay trong đêm xuân Ất Tỵ hết sức quyến luyến. Những giọt nước mắt tuôn trào, những lời chúc “lên đường thuận buồm, xuôi gió, ở lại mạnh khỏe, chiến đấu hăng say, hứa hẹn ngày trở lại”. Xa xa, tiếng pháo địch vẫn bắn cầm canh. Đúng 3 giờ sáng mồng hai Tết, tôi ấn mạnh tay chuông, con tàu rùng mình rẽ sóng ra khơi...”.

- Thưa bác! Nắm đất thiêng giờ nơi đâu? Cô giao liên năm nào bác có còn gặp lại? Tôi nêu câu hỏi.

 Ông Hồ Đắc Thạnh trả lời: “Nắm đất thiêng Vũng Rô được chúng tôi nâng niu, gìn giữ suốt chặng đường vượt biển, hiện đang đặt trang trọng trong Bảo tàng Quân chủng Hải quân. Còn cô giao liên ngày ấy tôi đã đi tìm suốt 40 năm qua mới gặp lại!”.

Chuyện người cựu binh thủy thủ tàu không số đi tìm cô gái trao cho mình nắm đất trong đêm xuân Ất Tỵ khá cảm động... Chiến tranh kết thúc, ông Thạnh về công tác ở Bộ tư lệnh Vùng 3 Hải quân. Năm 1984 nghỉ hưu tại thành phố Quy Nhơn (Bình Định). Trong quãng thời gian ấy ông đã mải miết đi tìm, nhưng chẳng ai biết cô giao liên ngày ấy ở đâu. Mãi đến năm 2004 ông về thăm quê hương Phú Yên thì điều kỳ diệu đã đến. Người con gái mà ông đằng đẵng đi tìm gần nửa thập kỷ qua lại chính là bà Nguyễn Thị Tảng, phu nhân của đồng chí Nguyễn Văn Dữ, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh – nguyên Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện Tuy An.

Trao nhau nắm đất thiêng từ thuở ấy, gặp lại sau hơn 40 năm xa cách, tóc họ giờ đã chuyển màu sương gió. Nhưng ký ức về những năm tháng chiến tranh ác liệt vẫn tươi nguyên. Ông bảo, những tấm Huân chương mà ông và bà Tảng đeo trên ngực áo thấm đẫm máu, mồ hôi và nước mắt của bao đồng đội kiên trung năm xưa đã anh dũng ngã xuống giữa lòng đất mẹ...

Kỳ 1: Trận đánh quyết tử và những dòng ghi trong “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”

Kỳ 2: Hai nửa cuộc đời của máy trưởng Phan Nhạn

Kỳ 4: Nhớ mãi tên anh

Bài và ảnh: Phan Tiến Dũng