QĐND Online - Từ năm 1961 – 1975, trên tuyến “đường Hồ Chí Minh trên biển” đã có 1.789 chuyến tàu không số vận chuyển 150 ngàn tấn vũ khí trang bị và 80 ngàn lượt cán bộ, vượt qua hàng vạn hải lý, khắc phục hơn 4.000 quả thủy lôi, chống chọi hơn 20 cơn bão, chiến đấu hơn 30 lần với tàu địch, đánh trả 1.200 lần máy bay địch tập kích, bắn rơi 5 chiếc và bắn cháy nhiều tàu xuồng của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Để lập nên những chiến công chói lọi ấy, có biết bao người con ưu tú anh dũng chiến đấu và không ít người trong số đó đã ngã xuống giữa lòng biển khơi. Báo QĐND Online trân trọng giới thiệu một số nhân vật tiêu biểu, mà chiến công của họ là những trang đời huyền thoại…
Kỳ 1: Trận đánh quyết tử và những dòng ghi trong “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”
“Hai chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”. Đấy là câu ví von về cuộc đời mình của ông Trần Ngọc Tuấn, cựu chính trị viên tàu 43, Đoàn tàu không số. Ông nói vậy, bởi trong chín lần vượt biển, thì hai lần đánh chìm tàu để không bị rơi tài sản vào tay giặc, bảy chuyến còn lại đều thành công. Để có được kỳ tích ấy, ông và đồng đội đã anh dũng chiến đấu và không ít người trong số đó vĩnh viễn nằm lại giữa lòng biển xanh…
Trận đánh quyết tử
Nha Trang chiều mưa. Những cơn mưa mùa thu khiến phố biển thêm an lành và mát mẻ. Trong ngôi nhà nhỏ số 9A/1B, phố Đặng Tất, cựu chiến binh đoàn tàu không số Trần Ngọc Tuấn say sưa kể về những kỷ niệm một thời cùng đồng đội vượt biển chở vũ khí, lương thực chi viện chiến trường miền Nam.
Những câu chuyện ông kể nhiều tình tiết, tản mạn và nghe qua có vẻ “hơi rông dài” nhưng chắp nối, sắp xếp các sự kiện, thì chính những điều tưởng chừng tản mạn và rông dài ấy lại là nguồn tư liệu vô giá, đầy chất bi tráng về chiến công của các thế hệ cán bộ, thủy thủ đoàn tàu không số năm xưa đã làm nên con đường huyền thoại – đường Hồ Chí Minh trên biển – Con đường của ý chí và sự sáng tạo Việt Nam…
Năm 1968, cục diện trên chiến trường phát triển mạnh mẽ và rộng khắp, trước tình hình đó, Bộ Tổng tham mưu tin tưởng giao nhiệm vụ cho Đoàn 759 tham gia vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam, phục vụ Chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân – 1968. Chuyến đi đặc biệt ấy, con tàu mang số hiệu số 43 gồm 17 thuyền viên, do thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng và Chính trị viên - Bí thư Chi bộ Trần Ngọc Tuấn chỉ huy. Nhiệm vụ trên giao là tàu 43 chở 37 tấn vũ khí vượt biển vào huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) giao hàng tại bến bí mật.
 |
Ông Trần Ngọc Tuấn (thứ 4 từ trái sang, hàng đứng) cùng đồng đội trên tàu 43 trước lúc đi chiến dịch Mậu Thân – 1968. |
Đêm 27-2-1968, tàu 43 và 3 chiếc tàu khác nhận lệnh xuất bến. Mặt biển đen đặc, gió lạnh thốc từng cơn, những con tàu lầm lũi đè sóng thẳng hướng vào Nam. Tuy đã được chuẩn bị rất kỹ và ngụy trang kín đáo, nhưng trên đường đi, máy bay và tàu chiến địch đã nghi ngờ phát hiện và theo dõi sát sao các hoạt động của tàu ta. Trước tình thế đó, chính trị viên Trần Ngọc Tuấn bình tĩnh động viên anh em giả vờ đánh bắt cá, lòng vòng trên biển suốt 3 ngày đêm. Mặc sóng to, gió lớn, bất chấp hành động quần đảo của máy bay và sự phong tỏa của tàu chiến địch, những thủy thủ tàu không số vẫn can trường, bình tĩnh xử lý linh hoạt các tình huống. Cứ kiên trì, bền gan hành quân như vậy, đến đêm thứ ba tàu 43 vào tới vùng biển Quảng Ngãi. Tất cả mọi thành viên đều khấp khởi mừng thầm, bởi chỉ còn một thời gian rất ngắn nữa thôi tàu sẽ cập bến.
Đúng 0 giờ 50 phút ngày 1-3-1968, tàu 43 cách bờ khoảng chừng 20 hải lý thì bất ngờ bị 4 tàu chiến của địch tăng tốc bao vây. Chúng đồng loạt bắn pháo sáng lên bầu trời đêm, những tia chớp sáng rực cả một vùng biển. Chỉ sau vài phút các loại pháo trên tàu địch bắn tới tấp vào tàu 43. Tiếp đến, chúng khép dần vòng vây hòng bắt sống toàn bộ tàu ta.
Không còn cách nào khác, Thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng đứng trên đài chỉ huy phát lệnh tiêu hủy tài liệu, sẵn sàng chiến đấu. Chính trị viên Trần Ngọc Tuấn đến từng vị trí động viên anh em giữ vững tinh thần. Tại khoang lái, chiến sĩ hàng hải Vũ Xuân Ruệ một tay giữ chặt bánh lái, tay còn lại cầm quả thủ pháo giơ cao, giọng dõng dạc: “Báo cáo chính trị viên! Chúng tôi đã sẵn sàng!”. Chính trị viên Tuấn hài lòng: “Được! Các đồng chí giữ vững vị trí chiến đấu!”.
Chính trị viên Tuấn vừa dứt lời thì đạn pháo địch từ bốn chiến hạm bắn cấp tập vào tàu 43. Cùng lúc 10 tàu cao tốc (loại nhỏ) xuất hiện, mỗi đợt hai chiếc lao vào tấn công bên mạn phải tàu ta. Thuyền trưởng Thắng vẫn hiên ngang trên đài chỉ huy cho tàu luồn lách chờ tàu địch vào gần hơn nữa. Tàu địch cách tàu ta 300 mét, 250 mét, rồi 150 mét…
“Nhằm thẳng tàu địch. Bắn!”. Thuyền trưởng Thắng hô lớn.
Chỉ chờ có vậy, các loại súng của ta đồng loạt nã đạn. Một tàu địch trúng đạn bốc cháy dữ dội, hai chiếc khác bị thương nặng. Bị ta đánh trả bất ngờ gây tổn thương nặng nề, máy bay địch điên cuồng vãi đạn xuống tàu 43. Mặt biển như sôi lên vì đạn pháo và rốc-ket. Tiếng DKZ, đại liên, súng máy cao xạ 12,7 ly của ta rền vang. Trận chiến đấu diễn ra rất căng thẳng, nhưng vì lực lượng của ta không cân sức, nên tàu 43 trúng đạn, chao đảo. Chiến sĩ Vũ Văn Ruệ bị thương nặng, toàn thân đẫm máu, tay vẫn giữ chặt bánh lái. Ở vị trí DKZ, chiến sĩ quân y kiêm pháo thủ số 2 Võ Nho Tòng cũng trúng đạn, hi sinh… Sau hơn 3 giờ đồng hồ chiến đấu ngoan cường, tàu ta vừa dùng bom chìm và bộc phá chặn, vừa sử dụng đại liên, trung liên, súng máy 12,7 ly tiêu diệt thêm 3 máy bay HU-1A, bắn hư hại nhiều tàu cao tốc địch rồi lao vào bờ… Quyết không để phương tiện và vũ khí rơi vào tay địch, thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng ra lệnh hủy tàu….
 |
Ông Trần Ngọc Tuấn (người mặc áo quân phục cũ, đeo kính) thắp hương tưởng niệm các đồng đội đã hi sinh. |
Ông Trần Ngọc Tuấn đứng dậy bước về phía bàn thờ, thắp nén nhang kính cẩn tưởng nhớ những đồng đội đã hi sinh. Đôi vai gầy của người thủy thủ tàu không số rung lên. Ông nói, giọng nghẹn ngào, mắt ngấn nước: “Chiến tranh là tổn thất và thương vong. Chẳng có cuộc chiến nào mà không mất mát, hi sinh. Không biết bao lần tôi như đứt từng khúc ruột khi chứng kiến những đồng đội thân yêu của mình hi sinh. Đã mấy chục năm trôi qua nhưng tôi vẫn nhớ mãi lời trăng trối của đồng chí Vũ Văn Ruệ trước lúc ra đi: “Chính trị viên ở lại chiến đấu, trả thù cho em!”. Vũ Văn Ruệ vừa cưới vợ được 20 ngày thì xung phong lên đường. Còn Võ Nho Tòng thì vừa hoàn thành chuyến đi thứ nhất đã tình nguyện đi chuyến thứ hai. Đêm trước ngày lên đường, Tòng còn tâm sự với tôi: “Sau chuyến này em xin tranh thủ về quê cưới vợ. Hôm đó, nhất định chính trị viên phải làm chủ hôn cho chúng em!”. Vậy mà… cậu ấy đã hy sinh, toàn thân ngã vào chân pháo nhưng tay vẫn ôm chặt quả đạn. Để rồi cô thôn nữ Nguyễn Thị Ghi, quê Thái Thụy, Thái Bình vĩnh viễn không bao giờ gặp lại người mình yêu nữa...”.
Những dòng ghi trong “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”
Nhấp ngụm trà đặc quánh, cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn trao cho tôi cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”. Ông nói: “Tôi còn sống đến ngày hôm nay là nhờ bác sỹ Thùy Trâm và bà con thôn Quy Thiện. Cháu đọc đi, trong cuốn sách này cô Trâm có viết về tôi và đồng đội của tôi đấy!”.
Tôi đọc những dòng bác sĩ Đặng Thùy Trâm viết trong cuốn nhật ký mà cảm thấy khung cảnh chia ly giữa người ra đi và người ở lại thời chiến tranh thật đáng trân trọng. Cuộc chia ly ấy giản dị, hồn nhiên và sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng: “Vậy là chiều nay các anh lên đường, để lại cho mỗi người một nỗi nhớ mênh mông giữa khu rừng vắng vẻ. Các anh đi rồi nhưng tất cả nơi đây còn ghi lại bóng dáng các anh: những con đường đi, những chiếc ghế ngồi chơi xinh đẹp, những câu thơ thắm thiết yêu thương. Nghe anh Tuấn ra lệnh: “Tất cả ba lô lên đường!”. Những chiếc ba lô vụng về may bằng những tấm bao Mỹ đã gọn gàng trên vai, mọi người còn nấn ná đứng lại trước mình bắt tay chào mình một lần cuối. Bỗng dưng một nỗi nhớ thương kỳ lạ đối với miền Bắc trào lên trong lòng mình như mặt sông những ngày mưa lũ và… mình khóc ròng đến nỗi không thể đáp lại lời chào của mọi người. Thôi! Các anh đi đi, hẹn một ngày gặp lại trên miền Bắc thân yêu”.
- Thưa bác, cơ duyên nào bác có tên trong cuốn nhật ký này?
Ông Tuấn trả lời: “Thì trong chuyến vượt biển vào Quảng Ngãi hồi Mậu Thân – 1968 đó! Ngày ấy nhân dân xã Phổ Hiệp, huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã che chở, đùm bọc, yêu thương cán bộ, thủy thủ tàu 43 trong những thời điểm khó khăn, ác liệt nhất!”.
Ông kể: “Khi những tiếng nổ lớn ầm vang cả một vùng biển vừa tan cũng là lúc chúng tôi đã ở trong vòng tay che chở của đồng bào thôn Quy Thiện. Hôm đó, quân Mỹ hùng hổ tiến vào làng. Tiếng quát tháo, chửi thề inh ỏi. Tiếng giày đinh nện rầm rầm trên mặt đất. Vậy mà dưới hầm bí mật, chúng tôi vẫn được bà con che chở… Mười ngày đêm nằm hầm trong tình trạng thương vong, nếu không có sự đùm bọc, tận tình chăm sóc của nhân dân thì tôi và đồng đội đã bị địch bắt. Nếu ở lâu dưới hầm bí mật nguy cơ sẽ bị lộ, nên chúng tôi được du kích cáng lên bệnh xá của chị Đặng Thùy Trâm. Hai lần đi đều gặp địch buộc phải quay lại và đến đêm thứ ba mới về tới trạm xá. Trong thời gian điều trị, tôi và đồng đội được bác sĩ Thùy Trâm chăm sóc tận tình, chu đáo. Hình ảnh nữ bác sĩ Thùy Trâm – người con gái Thủ đô Hà Nội duyên dáng, trẻ trung, lạc quan, yêu đời tận tình cứu chữa thương binh trở thành liều “thuốc quý” động viên chúng tôi vượt qua tất cả…
Nói về kỷ niệm lúc chia tay bà con Phổ Hiệp, cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn bùi ngùi: “Không bao giờ tôi quên được giây phút chia tay trước khi vượt Trường Sơn trở về đơn vị hôm 10-4-1968. Tôi là người cuối cùng chia tay mảnh đất nặng tình, nặng nghĩa ấy. Hôm đó, Thùy Trâm nắm chặt tay tôi, mắt đẫm lệ: “Thôi! Các anh đi mạnh giỏi, bình yên, hẹn ngày gặp lại trên miền Bắc thân yêu!”. Phút chia tay bịn rịn khiến tôi không kìm được lòng mình…Và không ngờ lần chia tay ấy, vĩnh viễn chúng tôi chẳng bao giờ được gặp lại Thùy Trâm bằng xương, bằng thịt nữa!”…
 |
Chính trị viên tàu không số năm xưa bình dị giữa đời thường. |
Chiến tranh đã lùi xa, ông Tuấn giờ đã ở tuổi “xưa nay hiếm”. Năm 1968 bị thương ra Bắc điều trị, rồi chuyển ngành qua làm cán bộ trường Đại học Thủy sản. Gần hai chục năm đứng trên bục giảng, ông “truyền lửa” vào sinh viên bằng những câu chuyện về bao chiến công huyền thoại của đoàn tàu không số năm xưa. Về hưu với khoản tiền lương 116 đồng (nay là 2.700.000 đồng) cuộc sống của vợ chồng ông vô cùng khó khăn. Vợ ông – bà Nguyễn Thị Đệ một thời là thanh niên xung phong. Suốt 5 năm bám trụ trên tuyến lửa Quảng Bình và Quảng Trị, nhưng nay bà vẫn không có chế độ gì. Để có tiền nuôi con ăn học, ông bươn chải khắp nơi, từ nhân viên gác cổng trường, rồi nhân viên bảo vệ… Bây giờ con cái trưởng thành, cuộc sống khá hơn, ông tham gia hội cựu chiến binh. Những lúc vết thương không hành hạ, bệnh tình thuyên giảm là ông lại đến từng gia đình trong khu phố vận động con cháu lên đường nhập ngũ. Bằng tấm gương mẫu mực của mình, ông vận động, thuyết phục thanh niên hư hỏng tiến bộ. Thỉnh thoảng ông lại tìm về thăm hỏi những người đồng đội năm xưa…
Cũng có lúc ông cảm thấy như bị “lãng quên”. Ông chuyển ngành khi quân hàm trung úy, nhưng mới đây Quân chủng Hải quân gửi giấy mời tham gia hội thảo khoa học lại ghi thiếu tá. Ông cười hiền: “Chắc các anh ấy thương nên phong quân hàm vượt cấp cho tớ! Đùa vui vậy thôi, chứ còn sống đến ngày hôm nay là hạnh phúc lắm rồi. Chỉ tiếc thương những đồng đội đã hi sinh giữa biển khơi!”.
Tuy cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn không hề trách cứ ai, nhưng tôi thấy ông quá thiệt thòi. Chín lần vượt biển, thì hai lần gặp địch bủa vây, hai lần chỉ huy đánh bộc phá hủy tàu nhưng ông và đồng đội vẫn mưu trí thoát khỏi vòng vây địch. Các chuyến đi còn lại đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chở vũ khí vào miền Nam. Với những chiến công ấy, ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu cao quý nhất. Tuy không được Nhà nước tuyên dương, nhưng biết bao đồng đội và đồng bào luôn coi ông là người anh hùng…
Kỳ 2: Hai nửa cuộc đời của máy trưởng Phan Nhạn
Bài và ảnh: Phan Tiến Dũng