QĐND - Trở thành chiến sĩ của đoàn tàu không số, 7 chuyến vượt biển chở hàng thành công, nhiều lần đối mặt với cái chết và đều may mắn thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù nhờ sự quyết đoán, mưu trí của chỉ huy tàu và tập thể tàu 154 anh hùng, nhờ sự chỉ đạo sát sao của cấp trên… Câu chuyện của cựu chiến binh Phạm Xuân Hương, cựu máy trưởng của con tàu 154 vẫn tươi rói như mới xảy ra ngày hôm qua.
Trở thành chiến sĩ tàu không số
Chiến tranh đã tạo ra những xoay chuyển thật bất ngờ. Khi rời quê, một xã nghèo của vùng đất Đô Lương, Nghệ An, nhập học Trường trung cấp Hàng hải (nay là Đại học Hàng hải, Hải Phòng) năm 1961, Phạm Xuân Hương không thể nghĩ có ngày mình được trở thành lính của đoàn tàu không số. Học hết năm thứ 2 của nhà trường, theo yêu cầu của Thành đội Hải Phòng cần một số người có trình độ kỹ thuật nhập ngũ, Phạm Xuân Hương cùng nhiều sinh viên khi ấy đã viết đơn tình nguyện lên đường. Vậy là, ông trở thành chiến sĩ ngay tại thành phố cảng và gia đình ông sau đó chỉ biết được tin ông đi bộ đội qua một giấy báo tin của đơn vị. Tháng 3 năm 1964, khi ông đang cùng 500 chiến sĩ miệt mài đổ mồ hôi trên thao trường với các khoa mục huấn luyện cơ bản của chiến sĩ mới bộ binh tại khu vực Xuân Mai (Hà Nội) chuẩn bị hành quân ra chiến trường để thành lập một công binh xưởng, sửa chữa vũ khí theo quyết định trước đó của cấp trên thì được lệnh ở lại nhận nhiệm vụ mới cùng một số đồng chí. Từ đấy, con đường binh nghiệp của ông lại rẽ sang một ngả khác…
Mãi sau này, khi đã vượt qua những cuộc “thử sóng” ác liệt ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ mà có người “yếu sóng” đã nôn ra mật xanh mật vàng, ông mới mang máng biết mình sẽ nhận một nhiệm vụ đặc biệt, liên quan đến chuyên môn đã được học tại trường Hàng hải. Nhớ lại giai đoạn thử sóng để làm lính biển ngày ấy, ông cười: Đơn giản lắm, lính mới được cho lên tàu khi biển động, ra đến giữa biển, tàu neo lại, việc ai nấy làm bình thường. Đi biển mới biết, tìm được người trong hoàn cảnh ấy mà không bị say sóng, khó lắm. Với chúng tôi, rất rõ ràng, ai say sóng nhưng vẫn ăn được cơm, người ấy trúng. Ai say sóng đến độ không ăn được gì, người ấy được chỉ huy cho lên bờ chuyển làm việc khác…
 |
Cựu chiến binh Phạm Xuân Hương và đại diện Hội tàu không số toàn quốc trao tặng ảnh tàu không số cho gia đình liệt sĩ Nguyễn Hữu Hùng.
|
Tháng 7 năm 1964, Phạm Xuân Hương và cánh lính trẻ được điều về tiểu đoàn huấn luyện K35 Đồ Sơn và tùy theo chuyên môn đã được học tại trường Hàng hải, mỗi người được tiếp tục huấn luyện chuyên sâu chuyên ngành của mình. Ông được phân công huấn luyện về máy tàu. Khóa huấn luyện kết thúc cũng là lúc Đoàn 125 nhận những con tàu mới từ nước bạn. Ông được biên chế về tàu 154-số tàu mà mỗi cán bộ, thủy thủ tàu đều biết tuy tàu trong các chuyến vận chuyển vũ khí bí mật không được gắn số. Tàu mới lại được lắp loại máy của Đức 225 mã lực chạy rất êm. Cũng chính yếu tố máy khỏe, chạy êm đã giúp con tàu ở nhiều tình huống phức tạp thoát được nanh vuốt của kẻ thù trong đường tơ kẽ tóc sau này....
Ông dõi mắt về phía xa như hồi tưởng lại cái nghề đã gắn cả cuộc đời ông với những con tàu, trước là ở đoàn tàu không số 125 và sau này là những con tàu hiện đại chở hàng hóa vượt đại dương. Giai đoạn làm quen với con tàu cũng mau chóng trôi đi, cán bộ, thủy thủ tàu 154 đã sẵn sàng cho nhiệm vụ. Và ngày ấy đã đến.
Chuyến vượt biển đầu tiên
Tháng 10-1964, tàu 154 ăn hàng tại K15 (Hải Phòng) và điểm đến của nó là bến Vàm Lũng (Cà Mau). Con tàu trọng tải 70 tấn, được cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ bốc xếp hàng hóa không quản ngày đêm chất vào khoang tàu, phía trên ngụy trang bằng lưới đánh cá. Trong chuyến đi ấy, ngoài 18 cán bộ, thủy thủ của tàu, có 3 cán bộ cao cấp đi cùng. Sau nay ông mới biết, một trong những vị cán bộ cao cấp, ông đã từng gặp, bắt tay trên chuyến tàu ấy chính là nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Ông nhớ rất rõ, khi xiết chặt tay từng thủy thủ nói lời cảm ơn sau khi vào đến nơi, đồng chí Lê Đức Anh tỏ ra rất vui, nói: Thật tuyệt vời, chỉ có 7 ngày đã vào đến miền Nam... Chắc khi đó, ý đồng chí Lê Đức Anh muốn so sánh với chuyến hành quân bộ trước đó mấy tháng trời khi vượt Trường Sơn ra miền Bắc…
 |
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng (khi là Chủ tịch Quốc hội) tặng quà cho các CCB đoàn tàu không số (CCB Phạm Xuân Hương thứ hai từ phải qua).
|
Có thể nói gì về chuyến vượt biển chở vũ khí đầu tiên trong đời khi trở thành lính Đoàn tàu không số? Ông cười bảo, chuyến đầu tiên, trong giai đoạn yên ả nhất của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển cũng có nhiều điều đáng nhớ.
Lính máy tàu, bộ phận được đánh giá là gian khổ nhất trên một con tàu. Ngoài việc “được” say sóng như các thủy thủ khác, trong ca làm việc của mình, bộ phận thợ máy còn luôn “được” căng tai nghe tiếng rú rít của máy tàu cùng những hiệu lệnh của thuyền trưởng từ ca bin chỉ huy truyền xuống, cũng như hít thở mùi dầu mỡ và tắm trong mồ hôi của mình. Ngồi “âm” dưới mặt nước hàng mét lúc đến ca làm viêc, chuyến hải trình đầu tiên của ông trên con tàu 154 diễn ra một cách âm thầm. Thế nhưng, dù đã rèn luyện nhiều qua các đợt “thử sóng” và được đánh giá chịu sóng tốt nhưng ông và các đồng đội cũng không thoát được say sóng. Thực ra, với những con tàu trọng tải trăm tấn như biên chế của Đoàn tàu không số thời ấy, sóng cấp độ nhỏ nhưng khi ra biển cũng đủ để tạo ra những trận say sóng đến mềm người. Trong khi đó, để đảm bảo bí mật, bất ngờ nhằm hạn chế sự phát hiện của đối phương, những chuyến tàu chở vũ khí vào Nam thường nhổ neo rời bến khi có gió mùa Đông Bắc, biển động. Vượt lên trên những khó khăn, sóng gió, đúng 7 ngày sau, con tàu đã có mặt ở bến Vàm Lũng, khẩn trương cất bốc vũ khí và ngược ra Bắc theo đúng kế hoạch đã đề ra. Xin được nói thêm, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tàu không số được chia thành nhiều nấc, mỗi nấc là một phương án tác chiến. Nếu như, giao hàng xong, về an toàn là hoàn thành 100%; mang hàng vào, giao hàng an toàn nhưng không ra được là hoàn thành 50%. Và còn một nấc nữa, vào nhưng không cập bến, phải thả hàng ngoài bãi cũng là đạt yêu cầu. Theo cách tính đó, chuyến đầu tiên của ông trên con tàu 154 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Trong năm 1964 và đầu năm 1965, ông cùng tàu 154 còn tiếp tục thực hiện 2 chuyến vận chuyển vũ khí nữa phục vụ chiến trường miền Nam. Ông ví von, "giai đoạn ấy có thể nói là thời điểm vàng son của Đoàn tàu không số trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, đi và về đúng thời gian, an toàn, chúng tôi chở hàng đều đặn như đi chợ…".
Chuyến tàu “Lập công dâng Bác”
Sau 3 chuyến đầu thành công, các chuyến đi tiếp theo của tàu 154 trong năm 1965 đều phải quay về do bị địch phát hiện, theo dõi và theo yêu cầu của trên để đảm bảo bí mật. Sau mỗi lần xuất bến rồi lại phải quay về, ông và thủy thủ của tàu đều buồn. Đó là thời điểm sau sự kiện Vũng Rô (tháng 2-1965), tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển đã mất đi yếu tố bí mật, bất ngờ, đòi hỏi chúng ta phải tìm hướng đi mới, chiến thuật mới đảm bảo vận chuyển được hàng hóa và tránh được địch theo dõi. Cuối cùng, sau nhiều ngày đêm tìm tòi, nghiên cứu, tranh luận và dựa trên kinh nghiệm thực tế được đúc rút từ chính mồ hôi, công sức và máu của những người lính biển tàu không số, phương án tuyến đường mới được cấp trên phê duyệt. Tuyến mới gồm hành trình: Hải Phòng, tàu chạy vòng qua đảo Hải Nam (Trung Quốc), ra vùng biển quốc tế gần sát hải phận các nước láng giềng khu vực Đông Nam Á, tùy theo nhiệm vụ của từng tàu và điểm đến. Sau khi xác định tọa độ chính xác, các con tàu không số lợi dụng đêm tối, bão gió sẽ dùng tốc độ cao chọc thẳng vào khu vực đã được xác định trước. Theo tính toán, con đường "đi vòng” như vậy đến điểm xa nhất (Cà Mau) sẽ mất khoảng 20 ngày đêm nếu “thuận buồm xuôi gió”, không bị địch ngăn cản. Trong không khí cả đơn vị quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ, nghiên cứu tỉ mỉ hải trình, luyện tập các tình huống bất trắc có thể xảy ra thì đột ngột ông và đồng đội được tin Bác Hồ, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng và nhân dân Việt Nam qua đời. Đau buồn vô hạn, ngay khi đơn vị làm lễ truy điệu Bác xong, đúng ngày 4-9-1969, vinh dự đi chuyến đầu tiên khai tuyến mới vào Cà Mau được trao cho con tàu 154. Với quyết tâm “Lập công dâng Bác”, thủy thủ toàn tàu tự hứa sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ.
 |
Đại diện Ban liên lạc đoàn tàu không số chụp ảnh lưu niệm với nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu.
|
Chấp hành nghiêm kỷ luật đã đề ra đối với chuyến đi khai luồng đặc biệt này, suốt hành trình đi vòng vào Cà Mau, tập thể lãnh đạo, thủy thủ của tàu 154 đã cương quyết, khéo léo tránh địch, ngụy trang tàu nhằm đạt được mục đích chính đã được cấp trên quán triệt: Bằng mọi cách, vận chuyển vũ khí vào đến bến. Ông kể, để tận dụng tối đa trọng tải chở vũ khí nên con tàu đã bớt đi lượng nước ngọt và thực phẩm dự trữ. Cũng vì thế, định lượng nước ngọt cho mỗi người, mỗi ngày chỉ là 1 ca to nước ngọt (khoảng 1 lít). Anh em trên tàu, ngày bình thường thì tắm nước mặn sau đó lấy khăn dấp nước ngọt lau lại người. Những ngày có mưa, lính ta ngoài việc lấy tăng võng hứng nước còn tranh thủ tắm ‘tiên” ngay trên bong tàu. Sau gần một tháng lênh đênh trên biển, con tàu đã đến đích. Sau gần 3 năm vắng bóng những con tàu không số, bến Rạch Gốc đã đón được chuyến hàng đầu tiên giải tỏa cơn “khát” vũ khí của quân và dân Khu 9. Khỏi phải nói lính tàu và lính bến vui mừng như thế nào khi con tàu ngót trăm tấn vũ khí vào đến nơi. Những cái ôm hôn xiết chặt, những giọt nước mắt cảm động, các đồng chí lãnh đạo của quân khu đã trực tiếp đến bắt tay ôm hôn từng cán bộ, thủy thủ. Ngay trong đêm cập bến, toàn bộ số vũ khí trên tàu đã được bốc dỡ an toàn và đêm hôm sau, con tàu lại trở ra Bắc. Để đủ tải giúp tàu chạy êm sóng và che mắt địch, anh em thủy thủ đã chất nhiều thứ lên tàu trong đó có một lượng lớn dừa nước…
Chuyến trở về của con tàu lần ấy cũng gặp nhiều may mắn. Không theo đúng hải trình cũ, nó đã đi tắt đoạn giữa quần đảo Trường Sa và Phi-líp-pin và sau gần nửa tháng đã cập bến an toàn. Thành công của chuyến hàng “Lập công dâng Bác” này đã chính thức mở ra một tuyến mới cho con đường Hồ Chí Minh trên biển. Chính vì thành tích này, tàu 154 sau đó đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT; cá nhân ông và các đồng đội được tặng “Huân chương Chiến công” Hạng Nhì.
Sau chuyến mở đường, cuối năm 1969 đầu 1970, tàu 154 còn thực hiện thành công 2 chuyến chở hàng vào một số bến nữa và tất cả đều đi đến nơi về đến chốn.
Lạc bến
Cho đến tận bây giờ bác Phạm Xuân Hương và nhiều người có mặt trên con tàu 154 vẫn không thể quên được những tình tiết của chuyến đi sóng gió cuối năm 1970 khi chở hành vào Rạch Gốc (Cà Mau). Chỉ huy con tàu khi đó là thuyền trưởng La Minh Tốt và Chính trị viên Phạm Văn Bắc. Vẫn theo truyền thống “biển động, sóng to” con tàu rời bến, vẫn hành trình cũ trên vùng biển quốc tế giáp với lãnh hải các nước bạn, sau gần một tháng liên tục vượt qua sóng gió, con tàu vào đến vùng biển Vịnh Thái Lan. Từ đây, theo kế hoạch, tàu sẽ nhằm hướng mũi Cà Mau mở hết tốc lực chạy vào, dự kiến đến bến vào tầm khoảng nửa đêm. Tuy nhiên, do sóng to, la bàn hỏng, xác định thiên văn không chính xác, đã quá 12 giờ đêm mà con tàu vẫn loay hoay chưa xác định được bến vào, mà chạy ra vùng biển quốc tế thì không kịp lại dễ bị địch phát hiện. Để tận dụng thời gian và yếu tố bí mật, bất ngờ, qua "hội ý cấp ủy" cấp tốc, lãnh đạo, chỉ huy tàu quyết định tiếp tục dò tìm bến, nếu quá muộn thì vẫn cập vào bờ, ngụy trang tàu rồi tìm cách bắt liên lạc với bến sau. Đến 4 giờ sáng, tàu 154 phát hiện 2 đèn đỏ tín hiệu giống như đèn báo cửa sông. Thuyền trưởng La Minh Tốt, sau thoáng đắn đo đã quyết định đi vào khoảng giữa 2 chiếc đèn màu đỏ ấy. Lọt qua cửa sông vài cây số cũng là lúc trời mờ sáng, nhìn 2 bên bờ đã lờ mờ thấy có những rừng cây có thể ngụy trang tàu, thuyền trưởng quyết định cập vào để tìm hướng khắc phục. Đúng lúc ấy, tàu phát hiện có 2 người dân đi đánh cá sớm nên quyết định tìm cách tiếp cận để hỏi đường. Thuyền trưởng La Minh Tốt đã nói thật với chàng thanh niên: Chúng tôi là bộ đội miền Bắc vào chi viện cho miền Nam và đề nghị chỉ đường. Sau những giây bối rối, ngập ngừng ban đầu, người thanh niên (sau này chỉ huy tàu mới biết cũng là du kích địa phương) đã hốt hoảng yêu cầu tàu quay đầu lại vì phía trước khoảng hơn cây số là bốt gác của địch nằm ngay sát bờ sông. 5 giờ 30 phút sáng, con tàu theo hướng dẫn đã quay trở lại và chui vào một lạch nhỏ dẫn vào một ngôi làng vừa được giải phóng và đang trong tình trạng “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Ngay lập tức, theo lệnh của du kích địa phương, con tàu đã được người dân cả làng mang cây lá đến phủ kín để ngụy trang. Kết thúc việc ngụy trang cũng là lúc cả tàu điếng người khi biết 2 chiếc đèn đã làm "cọc tiêu" cho tàu chạy vào ở cửa sông khi tối chính là 2 cột đèn tàu của đội giang thuyền ngụy làm nhiệm vụ canh phòng cửa sông. Nguyên nhân chúng không phát hiện ra tàu ta rất có thể do đêm đó mưa bão, máy tàu của ta chạy êm hoặc vì lý do nào đó đến giờ ông vẫn không thể lý giải được. Thế là, dù cách địch có vài chục mét, con tàu trăm tấn chở đầy vũ khí của “Việt cộng” đã lẳng lặng lọt qua…
 |
Những thủy thủ đoàn tàu không số năm xưa.
|
Buổi sáng hôm ấy, khoảng 7 giờ sáng, theo lịch, các loại máy bay trinh sát của địch lượn ngay sát phía trên con tàu nhưng chúng cũng không hề phát hiện ngay phía dưới chúng là con tàu với ngót trăm tấn "hàng" đặc biệt từ miền Bắc vượt cả ngàn hải lý được những người lính đoàn tàu không số quả cảm chở vào chi viện cho chiến trường. Thuyền trưởng La Minh Tốt ra lệnh điện về nhà báo cáo tình hình và đề nghị bến cho người đến dẫn đường để tàu cập bến. Cùng lúc, để bảo vệ con tàu, ngoài 4 thủy thủ được phân công ở lại trực trên tàu, toàn bộ cán bộ, thủy thủ phối hợp với du kích địa phương hành quân ra cửa rạch sẵn sàng chiến đấu đề phòng tình huống bất trắc bị địch phát hiện. Nằm dầm mình dưới bùn, ôm khẩu AK với cơ số đạn đầy đủ, mỗi phút qua đi căng như sơi dây đàn và từng người lính xác định sẽ hy sinh nếu địch phát hiện được con tàu. Trong giờ phút căng thẳng ấy, những người con từ miền Bắc xa xôi đã được các mẹ, các chị lo lắng chăm chút từng tý. Họ nấu cơm, mang nước đến từng vị trí, động viên anh em ăn uống để lấy sức vượt qua những phút giây căng thẳng "ngàn cân treo sợi tóc". Nhiều người nán lại, sẵn sàng chia lửa cùng anh em. Chính sự động viên tinh thần ấy đã giúp tập thể tàu vững tin hoàn thành nhiệm vụ mặc dù xung quanh họ, phía ngoài cửa sông, vẫn còn đó những cặp mắt soi mói của giang thuyền ngụy…
Tối hôm đó, cán bộ của bến đã tiếp cận được con tàu. 19 giờ, toàn bộ cán bộ, thủy thủ của tàu đã sẵn sàng nhổ neo. Một khó khăn khác lại đến khi con tàu không thể quay đầu bởi nó dài 52 mét trong khi con lạch rộng chỉ khoảng 25 mét. Trong lúc chưa biết tính sao thì ngay lập tức, du kích xã đã huy động nhân dân cùng góp sức kéo lui con tàu. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa sức người, sức máy lại "được" pháo sáng địch liên tục chiếu soi đường, con tàu sau những nỗ lực không mệt mỏi của quân và dân đã ra được sông Gành Hào lúc 12 giờ đêm.
Theo kinh nghiệm của người dẫn đường địa phương, ở vùng này, sóng biển khi đánh vào bờ thường tạo thành những bãi ngang. Tuy nhiên, qua hết bãi ngang ấy, khi vào cách bờ khoảng 50 mét, sóng biển lại tạo thành những rãnh nước trũng xuống sâu khoảng 2 mét. Phương án không chạy thẳng ra cửa sông mà lợi dụng những đoạn trũng này để lọt ra biển cuối cùng đã được chấp nhận, tuy rất mạo hiểm vì dễ mắc cạn. Vừa hành tiến, vừa căng mắt điều khiển theo hướng dẫn của hoa tiêu và người dẫn đường, con tàu rì rì chạy trong đêm đen và cuối cùng đã đến bến Rạch Gốc an toàn trước sự mừng vui đến ngỡ ngàng của lãnh đạo đơn vị cả hai đầu phía Bắc lẫn phía Nam…
Đấu trí, thi gan với địch
Sau khi hoàn thành chuyến đi bão táp, trong các năm 1971-1972 tàu 154 đã không đi trót lọt được chuyến hàng nào bởi lần nào xuất bến cũng bị địch phát hiện buộc phải quay về để đảm bảo bí mật. Cuối năm 1972, khi không quân Mỹ thực hiện cuộc tập kích chiến lược bằng B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu ở phía Bắc, tàu 154 lại được lệnh lên đường. Chuyến đi, bên cạnh quyết tâm đưa hàng đến bến của từng cán bộ, thủy thủ còn được hun nóng bởi lòng căm thù địch sâu sắc khi chúng xâm phạm đến bầu trời Thủ đô - trái tim của miền Bắc XHCN. Vẫn hành trình cũ, khi con tàu đang trong vịnh Thái Lan, chuẩn bị quặt lên Hòn Khoai thì bất ngờ phát hiện đèn cột của tàu địch. Theo kinh nghiệm, anh em xác định đó là tàu khu trục, khoảng cách gần 10 hải lý. Thuyền trưởng Nguyễn Văn Đức, Chính trị viên Phạm Văn Bắc họp cấp ủy gấp và xác định bị lộ, đành lệnh cho tàu quay ra. 10 giờ sáng ngày hôm sau, một chiếc máy bay của địch lượn ngay trên đầu và sau đó ngay lập tức 1 tàu tuần dương, 1 tàu khu trục của địch tìm cách tiếp cận tàu. Chúng yêu cầu tàu dừng lại để kiểm tra không được đã dùng súng bắn uy hiếp. Bắn đón phía trước, nã đạn phía sau tàu. Những cột nước lớn liên tục dội vào làm con tàu chòng chành, chao đảo. Phương án chiến đấu được thông qua, kể cả việc cảm tử lao vào tàu địch cho nổ tung khối thuốc nổ gắn sẵn trên tàu và hy sinh đã được tính đến. Địch vẫn bám theo uy hiếp nhưng không dám tiếp cận suốt cả ngày hôm đó. Buổi tối, địch vẫn tiếp tục tăng cường máy bay liên tục quần đảo, theo dõi hướng di chuyển của tàu. Mặc, chỉ huy vẫn quyết định cho tàu tiếp tục hành trình trên vùng biển quốc tế hướng ra Bắc. Khi đi ngang qua khu vực quần đảo Hoàng Sa do ngụy chiếm giữ, địch cho khu trục hạm mang tên Trần Quốc Toản 6 ra kèm tàu 154. Vẫn không dám tiếp cận dù có lúc chiếc tàu này chạy chỉ cách tàu ta vài ba chục mét. Chúng bật loa phóng thanh kêu gọi ầm ĩ: Các ông hải quân Đoàn 125, các ông đã bị lộ. Bây giờ là gần hải phận Đà Nẵng, các ông theo chúng tôi vào Đà Nẵng và sẽ được đáp ứng mọi thứ theo yêu cầu… Mặc địch kêu gọi, con tàu vẫn giữ đúng hành trình. Khi chạy ngang Hoàng Sa, cán bộ tàu xác định vùng biển này nhiều đá ngầm, tàu lớn của địch sẽ không dám chạy theo sát tàu ta ở khu vực nước nông. Một quyết định liều lĩnh nhằm cắt đuôi chúng: Chạy vào một vịnh nhỏ của đảo Vĩnh Hưng (thuộc Hoàng Sa ). Nằm trong vịnh, những “ngư dân” bất đắc dĩ mắc mồi câu cá trong khi tàu địch vẫn lởn vởn ngoài xa. Mỗi ngày, hàng tạ cá đánh được giúp anh em cải thiện bữa ăn lấy sức sẵn sàng thi gan với kẻ địch. Khi tình hình tạm yên ắng, tàu 154 quyết định rời vị trí trú ẩn trở về. Tuy vậy, vừa thoát ra khỏi vịnh thì tàu địch lại xuất hiện. Các loại tuần dương, khu trục của hạm đội 7 liên tục kèm tàu nhưng chúng vẫn không dám áp sát. Thuyền trưởng Nguyễn Văn Đức một mặt quyết định cho tàu nhằm thẳng hướng Hồng Công và đồng thời cũng ra lệnh cho toàn tàu sẵn sàng chiến đấu khi qua điện đài được trên thông báo, qua tin tức tình báo thu được thì con tàu đã bị lộ. Toàn bộ cán bộ, thủy thủ tàu xác định cảm tử nổ tàu nếu địch đến gần quây bắt. Khi tàu chạy gần đến đảo Hải Nam của Trung Quốc thì chiếc tàu ngụy Trần Quốc Toản 6 quay trở lại, riêng các tuần dương, khu trục của hạm đội 7 Mỹ vẫn quyết đeo bám theo dõi và tìm cách bắt sống. Trò mèo vờn chuột chỉ chính thức chấm dứt khi tàu 154 chạy vào đến hải phận Trung Quốc, lính biên phòng nước bạn đánh tín hiệu hỏi tàu nước nào và các tàu của hạm đội 7 đành chịu rút lui quay ra. Như vậy là gần một tháng trời đấu trí, thi gan với địch, tàu 154 đã trở về tránh được tổn thất…
8 năm gắn bó với con tàu 154, cùng đồng đội thực hiện thành công 7 chuyến hàng chở vũ khí vào miền Nam, năm 1973 theo phân công của cấp trên, Phạm Xuân Hương chuyển tàu và làm nhiệm vụ khác. Năm 1974, ông xây dựng gia đình và mãi đến năm 1983 mới chuyển ngành sau 19 năm 6 tháng phục vụ trong quân đội với quân hàm đại úy. Cho đến tận bây giờ, những chuyến vận chuyển vũ khí trên con tàu 154 anh hùng vẫn là chuỗi ký ức đẹp đẽ nhất của cuộc đời ông. Ông tự hào về con tàu anh hùng, về những thuyền trưởng tài ba, những chính trị viên mẫu mực, tự hào về những đồng đội thân yêu đã sát cánh cùng ông trong những ngày tháng cam go trên biển, đóng góp công sức nhỏ bé của mình vào chiến thắng vĩ đại chung của dân tộc...
Tuấn Anh ghi