Ảnh minh hoạ

Sau thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, biết rõ là các thế lực thù địch không để chúng ta yên, cùng với chống giặc đói, chống giặc dốt, Bác Hồ và Đảng ta đã lo việc chống giặc ngoại xâm.

Biết rằng, các lực lượng Đồng minh vào nước ta đều có mưu đồ thâm độc, nên Bác và Đảng ta đã sớm nêu rõ: “Chính sách chúng ta là phải tránh cái trường hợp: một mình đối phó với nhiều lực lượng Đồng minh (Trung Quốc – Pháp – Anh – Mỹ) tràn vào nước ta” do đó “sự mâu thuẫn giữa 2 phe đồng minh Anh – Pháp và Mỹ - Trung Quốc về vấn đề Đông Dương, là một điều ta cần lợi dụng …” Đảng cũng đã dự tính mâu thuẫn giữa Anh – Mỹ - Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh – Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương.

Với chính sách và dự tính như trên, Bác Hồ và Đảng ta đã tương kế tựu kế, đẩy được 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch rút về nước từ tháng 6-1946. Đối với thực dân Pháp, ta đã tìm mọi cách hòa hoãn bằng đấu tranh ngoại giao, cốt giành được thời gian hòa bình để xây dựng và phát triển thực lực cách mạng.

Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 9 năm 1945, quân Anh đã nhân danh lực lượng Đồng minh vào Miền Nam nước ta. Mưu đồ của Gờ-ra-xây (Gracey) trưởng phái bộ quân Đồng Minh, là sử dụng bộ máy chính quyền do Nhật dựng lên, rồi sau đó bàn giao lại cho thực dân Pháp. Nhưng, lúc đến Sài Gòn với một đại đội quân Pháp bám gót theo, thì chính quyền tay sai của Nhật đã bị lật đổ. Khi mưu đồ không thực hiện được thì chúng rất cay cú. Chúng đã sử dụng quân Phát- xít Nhật, các quan quân Pháp bị Nhật bắt làm tù binh trước đây được thả ra và các đảng phái phản động ngóc đầu dậy để gây rối đối với chính quyền cách mạng.

Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, thực dân Pháp dựa vào quân Anh, đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn. Với toan tính rằng, với một chính quyền nhân dân còn trong trứng nước chúng có thể đánh chiếm Nam bộ trong thời gian rất ngắn, để rồi lập ra một “nước Nam kỳ” thuộc Pháp tách khỏi Việt Nam. Nhưng chúng đã không ngờ, khi phải đụng đầu với một cuộc phản kích rất quyết liệt của quân và dân Sài Gòn.

Hưởng ứng lệnh của Ủy ban Kháng chiến Nam bộ do đồng chí Trần Văn Giàu làm Chủ tịch, nhân dân thành phố đã lập tức tổng bãi công, bãi khóa, bãi thị, triệt phá các đường tiếp tế lương thực cho địch, làm chướng ngại vật, cản bước tiến của địch khắp nơi. Những người già yếu được tổ chức tản cư. Nhiều máy móc thiết bị được công nhân chuyển ra vùng Dĩ An, An Phú Đông … để lập công binh xưởng sản xuất vũ khí đánh địch. Nhiều đoàn quân “nốp với giáo mang ngang vai” từ các vùng nông thôn tiếp giáp thành thị, đã tiến vào Sài Gòn tham gia chống giặc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, các chi đội Nam tiến ở các tỉnh Bắc bộ và Trung bộ cũng lần lượt quay trở vào chiến trường Miền Nam.

Trong tuần lễ đầu, nhiều quân địch bị thương vong. Nhiều xí nghiệp, công sở lớn nhỏ, nhiều kho tàng và cơ sở các chợ, nhiều tàu xuồng, ô tô vận tải, cầu cống và nhiều cơ sở kinh tế đã bị phá hoại rất nặng.

Cuộc chiến đấu của quân và dân Sài Gòn – Chợ Lớn đã làm cho địch lâm vào tình trạng khốn đốn. Đầu tháng 10-1945, Gờ-ra-xây làm trung gian cho Pháp, yêu cầu ngưng chiến để đàm phán với ta, hhằm kéo thời gian để chờ viện binh. Ta cũng cần có dịp tỏ rõ chính nghĩa của mình và cũng muốn có thời gian để củng cố lực lượng, nên chấp nhận ngưng chiến một tuần lễ. Đại biểu của ta - đồng chí Phạm Ngọc Thạch đã gặp Xê-đi-dờ (Cédille) -đại biểu phía Pháp 3 lần, nhưng không có kết quả. Riêng về phía ta trong tuần lễ hưu chiến, ta đã đưa được nhiều cán bộ từ Côn Đảo để tăng cường cho bộ máy kháng chiến, trong đó có các đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng.

Hết hạn ngưng bắn, quân và dân Sài Gòn – Chợ Lớn tiếp tục đánh địch ở nhiều nơi, nổi lên là các trận đánh ở các cầu trên đường ra vào thành phố.

Cuối tháng 10-1945, có quân và xe pháo được tăng viện từ Pháp sang, dưới quyền tổng chỉ huy của danh tướng Lơ-cờ-léc (Leclerc) chúng đã phá được vòng vây và đánh rộng ra các tỉnh Nam bộ.

Với vinh dự đã bắn những phát súng đầu tiên vào giặc Pháp xâm lược Việt nam lần thứ hai, quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đã kìm chân giặc ở thành phố được một tháng. Các tỉnh ở Nam bộ có thời gian để chuẩn bị lực lượng. Dân quân đã được xây dựng thành đội ngũ đông đảo. Nhiều đơn vị vũ trang được củng cố như : Liên quân Bà Điểm – Hóc Môn, Liên quân Gò Vấp – Đức Hòa, bộ đội Tổng công đoàn, bộ đội Thủ Khoa Huân, bộ đội An Phú Đông… Nhiều căn cứ du kích được xây dựng. Lực lượng lãnh đạo, chỉ huy được tăng cường. Tinh thần xả thân cứu nước được cổ vũ … Nhờ có sự chuẩn bị từ trước, nên giặc Pháp đánh đến đâu đều gặp phải sức kháng cử quyết liệt, gây cho địch rất nhiều tổn thất.

Tháng 1-1946, quân Anh rút khỏi miền Nam Đông Dương.

Với cuộc đấu tranh chính trị sôi sục của đồng bào cả nước, có uy thế của cuộc Nam bộ kháng chiến và, qua hoạt động ngoại giao khôn khéo của ta, chính phủ Pháp đã phải ký kết với chính phủ ta Hiệp định sơ bộ ngày 6-3 và Tạm ước ngày 14-9-1946. Dựa vào pháp lý của hai Hiệp định này, nhân lúc Pháp điều động một phần quan trọng lực lượng quân sự của chúng ra phía Bắc, quân và dân các tỉnh Nam bộ đã vùng dậy diệt tề, trừ gian, vận động ngụy quân, ngụy quyền chống địch càn quét. Lực lượng chính trị vũ trang và nửa vũ trang phát triển mau chóng, tiêu diệt, làm tiêu hao nhiều sinh lực địch, thu được nhiều vũ khí …

Cuộc kháng chiến trong 15 tháng ở Nam bộ (từ 23-9-1945 đến 19-12-1946) đã khẳng định “chân lý” đồng bào Nam bộ là dân của nước Việt Nam, đã tạo thế cho chính phủ ta đấu tranh về ngoại giao, đã buộc địch phải bị động đối phó với cuộc kháng chiến 3.223 ngày đêm (kể từ 23-9-1945 đến 20-7-1954) và cuối cùng chúng đã bị thất bại thê thảm[1]. Thực dân Pháp đã phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương, đã phải rút quân khỏi miền Bắc và bị đế quốc Mỹ hất cẳng ở Miền Nam nước ta.

Tháng 2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ, đã tặng đồng bào Nam bộ danh hiệu vẻ vang “Thành đồng Tổ quốc”. Đó là một vinh dự vô cùng to lớn, một danh hiệu rất xứng đáng với sự hy sinh và đóng góp to lớn của quân và dân Nam bộ.

Trần Trọng Tân



[1] Gần nửa triệu quân nhà nghề bị giết, bị thương, bị bắt sống. Tiêu phí 2688 tỉ Phrăng và 2.600 triệu đôla Mỹ viện trợ. 20 lần Chính phủ Pháp bị đổ . 8 danh tướng kế tiếp nhau bị thua trận.