QĐND - Từ năm 1972, nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật và cán bộ theo đường biển vào chiến trường miền Nam phục vụ chiến đấu tuy không còn căng thẳng như những năm đầu, nhưng Đoàn 125 vẫn thường xuyên có những chuyến tàu đưa hàng vào những vùng sâu, vùng xa ở các tỉnh cực Nam Nam Bộ. Các tàu được trang bị tốt hơn, có máy thông tin, báo vụ, ra-đa dẫn đường...; có đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, thủy thủ từng bước được nâng cao về trình độ nghiệp vụ. Tuy phải giữ bí mật tuyệt đối về thời gian, địa điểm xuất phát nhưng địa điểm đã thuận lợi hơn, các tàu có sự chuẩn bị chu đáo để tiếp nhận xăng dầu, vũ khí, khí tài cũng như lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm bảo đảm hành quân dài ngày. Đó là do có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát của Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, thủ trưởng Quân chủng Hải quân; sự quan tâm chu đáo của các cơ quan trong Quân chủng về mọi mặt. Cùng với sự chủ động, sáng tạo, tinh thần quyết tâm “đi đến cùng”, “tất cả vì miền Nam thân yêu” của cán bộ, thủy thủ trên các con tàu không số.
Để hiệu quả vận tải ngày càng cao, vấn đề đặt ra là phải nâng cao được chất lượng các con tàu đi làm nhiệm vụ. Tàu của Đoàn 125 là loại tàu vận tải quân sự, được thiết kế bảo đảm cất chứa được nhiều hàng nhất; đồng thời, được trang bị các trang thiết bị kỹ thuật hàng hải cũng như các loại vũ khí sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu hoạt động, tác chiến độc lập, đi xa, đi dài, chịu được sóng to, gió lớn. Tuy nhiên, các tàu đang sử dụng có tuổi thọ đã giảm, chất lượng thấp, các trang bị kỹ thuật hàng hải đi cùng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác vận tải biển. Vào những năm cuối thập niên 60, các xưởng đóng tàu ở trong nước đã tăng cường năng lực sản xuất, nâng cao từng bước chất lượng sản phẩm theo phương hướng đáp ứng yêu cầu đi xa, hoạt động độc lập, trữ lượng xăng, dầu mang theo lớn. Nhưng do hạn chế về trình độ thiết kế và sản xuất của các xưởng trong nước nên tuy nhiều tàu đã được đóng và đưa vào sử dụng nhưng còn nhiều khiếm khuyết, chưa hoàn chỉnh.
 |
Đưa hàng hóa lên Tàu không số chuyển vào Nam. Ảnh tư liệu. |
Đi đôi với việc tự thiết kế, sản xuất tàu ở trong nước, việc đặt hàng các loại tàu có tải trọng, kích thước, năng lực vận tải lớn hơn từ ngoài nước là một yêu cầu tất yếu có tính khách quan của nhiệm vụ vận tải của Đoàn. Từ cuối những năm 60 đến đầu những năm 70, Đoàn 125 đã có những con tàu vận tải có tải trọng hơn 200 tấn, với trang thiết bị ngày càng hiện đại như tàu Nhật Lệ... Những tháng cuối năm 1970, Đoàn 125 tổ chức thêm 14 chuyến hàng vận chuyển chi viện chiến trường, song chỉ có 4 chuyến thành công, còn 10 chuyến khác gặp địch ngăn chặn phải quay về. Tháng 12-1970, theo chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Đoàn 125 tạm ngừng vận chuyển để tìm phương thức mới phù hợp hơn.
Có điều kiện củng cố lại toàn diện, Đảng ủy, Chỉ huy Đoàn 125 tập trung xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đồng thời ra sức tu bổ, bảo dưỡng, sửa chữa lại những tàu hư hỏng cũng như trang thiết bị trên tàu. Sang giữa năm 1971, để chi viện kịp thời vũ khí cho chiến trường miền Nam chiến đấu, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của địch, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sang giai đoạn phát triển mới. Quân chủng tiếp tục giao cho Đoàn 125 tổ chức các chuyến tàu chở vũ khí bằng đường biển chi viện chiến trường, với phương thức vận chuyển vòng xa, qua Hải phận quốc tế xuống tận cùng phía Nam đất nước. Những chuyến đi thành công của Đoàn 125 đã mở ra khả năng mới để Quân chủng tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ vận tải biển trong những năm tiếp theo. Đồng thời, cũng trong thời gian này, Đoàn 125 tổ chức tiếp nhận thêm một số tàu mới, hiện đại hơn, góp phần đưa năng lực, hiệu suất vận tải cao hơn trước.
Đầu tháng 4-1972, Quân chủng giao cho Đoàn 125 (lúc này đóng quân tại Hải Nam, Trung Quốc) tổ chức một đoàn gần 50 người, trong số đó có tôi (Trần Thế Dân), do đồng chí Đoàn trưởng trực tiếp chỉ huy đi tiếp nhận tàu do Bạn viện trợ tại thành phố Quảng Châu, Trung Quốc. Trước khi đi, chúng tôi được quán triệt, lần tiếp nhận này là một đợt lớn, vừa nhận tàu, vừa đồng thời tổ chức học tập ngay tại chỗ về cách sử dụng và sau đó đưa tàu về đơn vị. Vì vậy, mỗi một cán bộ, chiến sĩ trong đoàn cần học tập, nghiên cứu nghiêm túc để nắm bắt khoa học kỹ thuật mà do cán bộ Bạn trao đổi.
Chúng tôi hành quân bộ đến thành phố Quảng Châu. Tại đây, đã có các đồng chí cán bộ của Hạm đội Nam Hải ra đón và đưa chúng tôi về ở khách sạn. Ổn định chỗ ở xong, chúng tôi tập trung tại Hội trường nghe đồng chí Đoàn trưởng quán triệt nhiệm vụ và nhắc nhở việc quan hệ, tiếp xúc với bạn. Họp xong, đồng chí Chính ủy Hạm đội Nam Hải của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tới thăm Đoàn. Đồng chí bày tỏ tình đoàn kết hữu nghị và chiến đấu giữa nhân dân và quân đội hai nước Trung Quốc - Việt Nam, đồng thời chia sẻ, được trao cho Đoàn những chiếc tàu hiện đại, theo đơn hàng của Việt Nam là một vinh dự to lớn của cán bộ chiến sĩ Hạm đội. Đồng chí coi đây là gián tiếp cùng Đoàn hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của chúng ta. Đồng chí Đoàn trưởng đáp từ, cảm ơn Bạn và hứa sẽ tiếp thu khoa học kỹ thuật, nắm vững trang thiết bị trên tàu để khai thác, sử dụng tốt nhất tàu do Bạn viện trợ.
Sang ngày thứ ba, 16-4-1972, chúng tôi được Bạn đưa đến thăm Hạm đội và các tàu ta tiếp nhận. Lần nhận tàu này, Bạn bàn giao cho Đoàn bốn (04) tàu chở hàng quân sự. Tàu có chiều dài khoảng trên, dưới 50 mét, lượng giãn nước lớn. Đây là loại tàu mới được đóng theo dạng tàu đánh cá, Đài chỉ huy ở phía trước sơn màu trắng, mũi tàu và thân tàu sơn màu xanh, có hai khoang chứa hàng rất rộng lùi về phía sau, có cả cột buồm và cần cẩu ở từng khoang hàng, nhìn hình thức bên ngoài tàu khác hoàn toàn so với các loại tàu vận tải quân sự của Đoàn hiện có. Khi neo đậu tại cảng, cả 4 tàu trông đều tăm tắp và mới.
Chúng tôi được Bạn đưa đi tham quan tàu một lượt và nghe giới thiệu chi tiết về tính năng kỹ, chiến thuật của tàu. Đài chỉ huy tàu được bố trí khá rộng rãi, bảo đảm chỉ huy và hoạt động tác nghiệp hàng hải và chuyên môn... Tàu được trang bị các loại máy móc hiện đại như máy đo độ sâu của vị trí tàu hoạt động, máy dò tìm chướng ngại vật ngầm dưới mặt nước, máy dò tìm thủy lôi.... Tàu được thiết kế có nhiều vị trí rất hợp lý cho tác nghiệp của nhân viên kỹ thuật và của thủy thủ. Từ đài chỉ huy trên cao phía trước mũi tàu, thuyền trưởng có thể quan sát toàn bộ hoạt động của các vị trí công tác ở cả phía trước và sau tàu, đặc biệt là hoạt động của thủy thủ mặt boong, trong việc cập, rời tàu cũng như khi tàu hoạt động trên biển. Các vị trí súng cũng bố trí phù hợp. Tàu được trang bị các loại súng 12,7mm, 14,5mm, súng DKZ... trang bị cá nhân có súng AK, RPĐ, B40, B41... với đầy đủ cơ số đạn dược dự trữ đi kèm. Hai khoang chứa hàng của tàu nằm chìm xuống dưới và rất rộng, có thể chứa được hàng chục tấn hàng hóa. Ở mỗi khoang lại có cần cẩu để cẩu và sắp xếp hàng. Khoang ngủ của thủy thủ được bố trí gọn, đẹp và chia thành nhiều ngăn khác nhau rất phù hợp, giường nằm hai tầng, có quạt cá nhân và có cửa nhỏ nhìn được ra ngoài.
Sau khi cùng đoàn đi tham quan, theo chuyên môn của từng người, chúng tôi ai ngành nào thì cùng các đồng chí Trung Quốc ngành đó đi tiếp nhận bàn giao. Tôi theo sĩ quan ra-đa của Bạn cùng người phiên dịch vào phòng tác nghiệp ra-đa trên đài chỉ huy, tìm hiểu loại ra-đa mình sẽ nhận. Qua Bạn giới thiệu, ra-đa của tàu là loại máy mới, đã được nghiên cứu cải tiến nhiều so với các loại ra-đa trên tàu trước đây, toàn bộ mạch điện là mạch bán dẫn và sử dụng bóng bán dẫn, mạch vi điện tử thay thế cho các loại bóng điện tử. Vì vậy, các hệ thống máy móc được bố trí rất gọn trong một khối ngay trên đài chỉ huy. Khi Bạn mở máy hoạt động, màn huỳnh quang hiện lên vệt quét quay tròn. Hình các tín hiệu đưa về nổi rõ mồn một, rất sắc nét và không bị nhiễu.
Nhận bàn giao máy lần này tôi thực sự lo lắng, vì nó khác hoàn toàn so với loại máy mình học trong nhà trường cũng như các loại máy khác. Các loại máy trước tôi sử dụng bóng điện tử cho các loại mạch điện, còn đây là mạch bán dẫn, không biết có khó lắm không, tiếp thu nhanh hay chậm? Kết thúc ngày đầu tiên làm việc với Bạn, khi về đến nơi ở, tôi báo cáo với thuyền trưởng. Anh động viên cứ cố gắng tiếp thu những kiến thức Bạn trao đổi, ta có thời gian, đồng chí nên tận dụng để học cho tốt.
Buổi tối hôm đó là tối ngày 16-4-1972, đây là một ngày không thể quên được của tất cả chúng tôi, những người đi nhận tàu. Bảy giờ tối, chúng tôi dự chiêu đãi tại Nhà khách. Khi đã ngồi vào vị trí, Đồng chí Chính ủy Hạm đội Nam Hải đứng lên phát biểu ý kiến. Sau khi hỏi thăm tình hình sức khỏe của Đoàn, đồng chí thông báo ngay tình hình chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra ở Việt Nam. Theo đó, rạng sáng ngày hôm nay (16-4-1972), đế quốc Mỹ đã huy động hàng trăm lần chiếc máy bay, kể cả máy bay B52, ồ ạt đánh phá vào các thành phố lớn của Việt Nam, trong đó có thành phố cảng Hải Phòng. Tại đây, liên tục trong ngày, địch huy động hàng trăm lần chiếc máy bay từ ngoài khơi, mở các cuộc đánh phá nhiều địa điểm của thành phố. Bom đạn địch rải suốt từ Sở Dầu, Bính Động, Nhà máy xi măng, Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng, Xưởng 46 Hải quân đến bến phà Bính và khu vực cảng, đã giết hại đồng bào ta ở khu vực Thượng Lý, gây tổn thất nhiều tài sản cho nhân dân. Quân và dân thành phố Hải Phòng đã kiên cường chiến đấu, bắn rơi 10 máy bay địch và bắn bị thương nhiều chiếc khác. Tiếp đó, đồng chí động viên chúng tôi bình tĩnh, yên tâm tiếp nhận tàu và khẳng định tình đoàn kết giữa hai dân tộc.
Tin Mỹ cho máy bay ném bom đánh phá trở lại miền Bắc làm mỗi người chúng tôi hết sức lo lắng, trong lòng mọi người đều như có lửa đốt khi biết rằng ngay Quân cảng của Đoàn tại Thủy Nguyên (Hải Phòng) cũng bị máy bay địch đánh phá dữ dội gây nhiều thiệt hại. Trong đoàn lại có nhiều đồng chí có gia đình, người thân đang làm ăn, sinh sống ở Hải Phòng.
Những ngày tiếp theo, tin tức chiến sự luôn được các đồng chí Bạn thông tin kịp thời, đầy đủ, giúp cho anh em nắm được tình hình ở quê nhà. Mặc dù rất sốt ruột nhưng tất cả chúng tôi đều quyết tâm học tập. Khi gặp những vấn đề khó về chuyên môn thì mạnh dạn hỏi Bạn. Mặc dù việc tiếp thu phải qua phiên dịch, nắm những vấn đề về tính năng kỹ thuật đều không đơn giản, nhưng anh em chúng tôi, mỗi người một việc, trong khi mỗi tàu chỉ có một đồng chí phiên dịch, thế là cứ người này gọi lại đến người kia kêu, lúc thì ghi ghi, chép chép, rồi đối chiếu, so sánh, lúc thì mở tung cả máy ra xem xét từng mạch điện. Tôi trèo lên ăng-ten thu, tháo cả chụp ăng-ten rồi lần theo mạch điện, khi xuống tới máy phát tín hiệu thì kiểm tra từng đầu mối. Ngoài việc học lý thuyết, Bạn còn thực hành hướng dẫn chúng tôi các động tác tháo lắp, kiểm tra và sửa chữa hư hỏng, tập hàn, lắp mạch điện và bàn giao đầy đủ phụ tùng, vật tư, linh kiện thay thế đi cùng.
Ngày nào chúng tôi cũng cặm cụi với công việc nghiên cứu, học tập. Chúng tôi ý thức được đây là cơ hội để mỗi người nắm chắc chuyên môn của mình, có như vậy thì khi đi công tác dài ngày, hoạt động độc lập trên biển mới bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ. Do đó, ai cũng cố gắng tập trung, học hỏi những vấn đề kỹ thuật do Bạn đặt ra, cũng như thực hành vận hành máy móc trong lúc có Bạn hướng dẫn bên cạnh. Đặc biệt là việc xử lý những tình huống hỏng hóc phức tạp cũng như những hư hỏng thường gặp trong tác nghiệp, nguyên nhân và cách khắc phục, hay những trường hợp phải thay thế cụm chi tiết máy...
Tổ tiếp nhận ra-đa của tôi có 4 đồng chí ở 4 tàu khác nhau, nhưng trong công việc, chúng tôi luôn trao đổi thông tin những nội dung tiếp thu hằng ngày. Đồng chí tổ trưởng là một người đã có thâm niên nhiều năm trong nghề, có nhiều kinh nghiệm sử dụng và sửa chữa, chúng tôi cứ bám lấy anh để nêu vấn đề học hỏi, và qua anh đề đạt với đồng chí Bạn nắm chắc cấu tạo, nguyên lý làm việc của máy và cách xử lý tình huống hư hỏng thông thường. Cuối buổi chiều, chuẩn bị kết thúc ngày làm việc, đồng chí Thuyền trưởng lại đến từng bộ phận nắm bắt tình hình. Chúng tôi báo cáo kết quả học tập, đề xuất với Thuyền trưởng những vướng mắc để đồng chí hội ý trong giao ban và nêu vấn đề với Bạn.
Hơn hai tuần tiếp thu trang bị kỹ thuật mới, cơ bản chúng tôi đã tự khai thác, sử dụng tương đối thành thạo máy móc của mình. Ngoài ra, chúng tôi còn học chéo một số loại khác như báo vụ, máy đo sâu, công việc mặt boong để hỗ trợ làm việc khi cần thiết. Cuối đợt học, cả 4 tàu tổ chức hội thao đánh giá kết quả tiếp nhận. Chúng tôi mở máy, thực hành bắt tín hiệu ra-đa trên màn hình, báo cáo cự ly, khoảng cách các điểm mục tiêu, sau đó đồng chí giám khảo kiểm tra trên máy... Kết thúc hội thao, chúng tôi được đánh giá đạt khá trở lên.
Tuy chỉ hơn 20 ngày sinh hoạt, học tập cùng với Bạn nhưng trong lòng ai cũng có những kỷ niệm hết sức sâu sắc và thực sự ấn tượng với phương pháp, tác phong làm việc khoa học, tận tình, chu đáo của Bạn.
Đầu tháng 5-1972, việc nhận tàu mới hoàn thành, chúng tôi đã nắm chắc kiến thức chuyên môn của mình, tự tin làm việc và sẵn sàng cho nhiệm vụ chiến đấu và hoạt động độc lập dài ngày trên biển cũng là lúc Đoàn có lệnh đi công tác. Buổi tiễn Đoàn chúng tôi tại thành phố Quảng Châu trở về đơn vị diễn ra xúc động. Sau ba hồi còi dài chia tay, tàu chúng tôi nổ máy, rời bến theo một hàng dọc trong tiếng chúc sức khỏe, tạm biệt của Bạn và tăng tốc lướt sóng hành quân về đơn vị an toàn, trong niềm vui chào đón của đồng chí, đồng đội ở nhà.
Đại tá Trần Thế Dân