QĐND - Cùng với các quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo của Việt Nam, Luật Biển Việt Nam cũng có những điều, khoản về bảo vệ tài nguyên và môi trường biển. Những quy định này đều phù hợp với Hiến chương của Liên hợp quốc và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

Chính sách quản lý và bảo vệ biển của Việt Nam đã được thể hiện rõ ràng tại Điều 5 của Luật Biển Việt Nam. Trong đó nhấn mạnh tới việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển kinh tế biển. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ vào việc sử dụng, khai thác, phát triển kinh tế biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển bền vững các vùng biển phù hợp với điều kiện của từng vùng biển và bảo đảm yêu cầu quốc phòng - an ninh . 

Điều 35 của Luật Biển Việt Nam có những quy định cụ thể về bảo vệ tài nguyên và môi trường biển:

 “1. Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ mọi quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan đến việc gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển. 

 2. Khi vận chuyển, bốc, dỡ các loại hàng hóa, thiết bị có khả năng gây hại đối với tài nguyên, đời sống của con người và ô nhiễm môi trường biển, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải sử dụng thiết bị và các biện pháp chuyên dụng theo quy định để ngăn ngừa và hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra cho người, tài nguyên và môi trường biển.

3. Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được thải, nhận chìm hay chôn lấp các loại chất thải công nghiệp, chất thải hạt nhân hoặc các loại chất thải độc hại khác trong vùng biển Việt Nam.

4. Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan làm ảnh hưởng đến tài nguyên và môi trường biển trong vùng biển, cảng biển, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam thì bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; nếu gây thiệt hại thì phải làm sạch, khôi phục lại môi trường và bồi thường theo quy định của pháp luật.

5. Tổ chức, cá nhân hoạt động trên các vùng biển Việt Nam có nghĩa vụ nộp thuế, phí, lệ phí và các khoản đóng góp về bảo vệ môi trường biển theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

Những quy định về quản lý tài nguyên và môi trường biển nói trên đều phù hợp với luật pháp quốc tế và đường lối, chiến lược phát triển kinh tế bền vững gắn với việc bảo vệ tài nguyên môi trường của Đảng và Nhà nước ta. 

Việt Nam là một trong những quốc gia có nguồn tài nguyên biển khá dồi dào và phong phú. Nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của Việt Nam đều gắn kết với biển như dầu khí, nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản, hàng hải và du lịch biển… Tuy nhiên, trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ tài nguyên và môi trường biển chưa đầy đủ, đã dẫn đến việc khai thác tài nguyên biển quá mức, một số vùng biển bị ô nhiễm. Mặc dù ở trên bình diện quốc gia, mức độ ô nhiễm đang ở mức khống chế, nhưng nếu không có các giải pháp phát triển kinh tế hợp lý thì sẽ dẫn đến hậu quả khó lường. Chính vì vậy, việc ra đời của Luật Biển Việt Nam với những quy định, chế tài cụ thể để quản lý, khai thác hiệu quả và bền vững tài nguyên biển, bảo vệ môi trường biển là cần thiết. Bởi lẽ nguồn tài nguyên biển không chỉ phục vụ cho đời sống của thế hệ hôm nay mà còn mang lại lợi ích lâu dài cho các thế hệ mai sau. 

Trong những năm gần đây, các quốc gia có biển đều không ngừng nỗ lực, xây dựng, triển khai nhiều chính sách, biện pháp, chương trình và kế hoạch nhằm khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, phát triển bền vững đất nước. Đến nay, nhiều quốc gia đã đạt được những tiến bộ và thành công đáng ghi nhận. Ở nước ta, trước khi Luật Biển Việt Nam ra đời, tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cũng đã có những quy định về khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển. Đặc biệt, trong Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã có hàng loạt chính sách và hành động nhằm gìn giữ nguồn vốn tự nhiên, chất lượng môi trường. Chiến lược có mục tiêu tổng quát là thúc đẩy khai thác, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên đất, nước, khoáng sản, tiềm năng, vị thế của biển, đảo; gìn giữ chất lượng môi trường nước biển, bảo tồn đa dạng sinh học, nâng cao khả năng chống chịu của các hệ sinh thái biển, đảo thông qua thiết lập và vận hành thông suốt thể chế quản lý tổng hợp và thống nhất, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ, thực hiện các nguyên tắc bền vững trong khai thác sử dụng tài nguyên, kiềm chế gia tăng ô nhiễm, suy giảm đa dạng sinh học, hình thành hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên, củng cố vành đai xanh ven biển góp phần thực hiện thành công và bền vững Chiến lược Biển Việt Nam.

Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật nói trên chưa đồng bộ và hiệu lực pháp lý còn thấp. Tại Luật Biển Việt Nam vừa được Quốc hội thông qua, ngoài điều quy định cụ thể về bảo vệ tài nguyên và môi trường biển còn có khá nhiều điều khoản khác liên quan đến vấn đề này. Trong 4 nguyên tắc phát triển kinh tế biển tại Điều 42 có nguyên tắc “Phù hợp với yêu cầu quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển”. Điều 37 quy định, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, cấm các tổ chức, cá nhân khai thác trái phép dòng chảy, năng lượng gió và tài nguyên phi sinh vật khác; Gây ô nhiễm môi trường biển. Điều 44 về Quy hoạch phát triển kinh tế biển, Luật Biển Việt Nam khẳng định: Căn cứ lập quy hoạch phát triển kinh tế biển bao gồm: Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia; Định hướng chiến lược phát triển bền vững và chiến lược biển; Đặc điểm, vị trí địa lý, quy luật tự nhiên của các vùng biển, vùng ven biển và hải đảo; Kết quả điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường biển; thực trạng và dự báo nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển của cả nước, của vùng và của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương; Giá trị tài nguyên và mức độ dễ bị tổn thương của môi trường biển; Nguồn lực để thực hiện quy hoạch.

Để đưa nhanh Luật Biển Việt Nam vào cuộc sống, phát huy tích cực trong cuộc sống, các cơ quan chức năng của Nhà nước ta đang khẩn trương biên soạn và ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, trong đó có những hướng dẫn cụ thể liên quan đến khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển. Hy vọng, đến ngày Luật Biển Việt Nam có hiệu lực thi hành (ngày 1-1-2013), các văn bản hướng dẫn thi hành Luật sẽ được ban hành đầy đủ và đồng bộ, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc quản lý, bảo vệ, khai thác biển Việt Nam, phù hợp với luật pháp quốc tế, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân./.

Luật gia Thịnh Phúc