Hội An là một thị xã của tỉnh Quảng Nam. Đây là một đô thị cổ nằm bên Cửa Đại, nơi con sông Thu Bồn đổ ra biển Đông.

Thương cảng Hội An ra đời cuối thế kỷ XVI và thịnh đạt ở thế kỷ XVII với những điều kiện, bối cảnh trong nước và khu vực thuận lợi. Trong nửa đầu thế kỷ XVII, Hội An đã trở thành một thương cảng nổi tiếng và sầm uất bậc nhất ở Việt Nam. Năm 1621, đã có thuyền buôn nhiều nước tìm đến FAIFO (tên gọi của Hội An thời đó) như Trung Quốc, Nhật Bản, Ma Cao, Ma-lắc-ca, Cam-pu-chia... Riêng Châu ấn Thuyền của Nhật Bản, trong khoảng 1604-1635 có 356 thuyền được cấp giấy phép xuất dương thì có 37 thuyền đến đàng ngoài và 87 thuyền đến đàng trong của Việt Nam, mà chủ yếu là đến Hội An. Cùng với người Nhật Bản là người Trung Quốc. Từ sau năm 1567 đến năm 1664, trong thời gian nhà Thanh bãi bỏ chế độ “Hải cấm”, thuyền buôn Trung Quốc được phép tự do buôn bán với các nước Đông Nam Á. Hội An cũng là nơi cuốn hút nhiều thuyền buôn Trung Quốc, nhất là vùng Phúc Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam.

Người Nhật Bản cũng như người Trung Quốc không chỉ theo thuyền đến buôn bán ở Hội An mà còn mở phố xá, cửa hàng và một số ở lại lưu trú lâu dài. Họ vừa buôn bán vừa làm môi giới phiên dịch và trung gian mua bán hàng cho thuyền buôn các nước khác. Dấu ấn ấy còn lại đến ngày nay, như Cầu Nhật Bản. Đây là cây cầu cổ (với tên gọi “Lai Viễn” ) duy nhất còn lại ở Hội An mà người Hội An quen gọi là Chùa Cầu - một di tích quen thuộc đã trở thành biểu tượng của đô thị Hội An. Cầu bắc ngang con lạch chảy ra sông Thu Bồn giáp ranh hai đường Nguyễn Thị Minh Khai và Trần Phú. Cầu được được xây dựng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII do các thương nhân Nhật Bản thực hiện. Hay như Hội quán Quảng Đông, do người Quảng Đông (Trung Quốc) ở Hội An xây dựng năm 1855 tại 176 phố Trần Phú, thị xã Hội An. Hội quán được trùng tu lớn vào các năm 1915 và 1960.

Trong thế kỷ XVIII - thời thịnh đạt, Hội An là nơi quy tụ hàng hóa, sản phẩm của Đàng Trong, nhất là dinh trấn Quảng Nam để chuyển bán cho thuyền buôn nước ngoài. Hàng xuất khẩu chủ yếu là lâm thổ sản quý như trầm hương, quế, hồ tiêu, yến sào, vàng, cau khô. Các loại dược liệu quý như sừng tê giác, đậu khấu, tô mộc, sa nhân... Một số sản phẩm thủ công như tơ sống, lụa, đường, đồ gốm... Hàng hóa nước ngoài cũng qua Hội An tỏa đi các nơi qua vai trò của các thương nhân trong nước. Hàng nhập khẩu gồm một số sản phẩm cung cấp cho nhu cầu của Nhà nước và quý tộc như vũ khí (đại bác, kiếm), nguyên liệu chế thuốc súng; đồng, kẽm (để đúc tiền); các loại gốm, lụa, đồ sứ cao cấp; hàng phương Tây như dạ, đồng hồ và nhiều mặt hàng dân dụng đủ các loại, từ gốm, sứ, vải, lụa đến thuốc Bắc, thuốc nhuộm, bút, mực. Do vai trò quan trọng của Hội An nên từ năm 1602, chúa Nguyễn cho thiết lập dinh trấn Quảng Nam ở Cầu Húc huyện Duy Xuyên và cử Hoàng tử thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ, vừa quản lý dinh trấn quan trọng và giàu có bậc nhất Đàng Trong vừa trực tiếp quản lý thương cảng Hội An. Sang thế kỷ XVIII, Hội An vẫn là thương cảng lớn của cả nước nhưng không còn điều kiện phát triển như trước. Về mặt mậu dịch đối ngoại đã có chiều hướng suy giảm trong sự suy thoái chung của hệ thống thương mại châu Á. Trong khi đó, các công ty tư bản phương Tây, nhất là Anh, Pháp lại tăng cường hoạt động kết hợp với truyền giáo làm cho chính quyền lo ngại và gia tăng biện pháp đối phó, trong đó có biện pháp hạn chế và kiểm soát ngoại thương. Cuối thế kỷ XVIII, Hội An bị tàn phá nặng nề trong cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn với quân Trịnh. Sang thế kỷ XIX, do sự bồi cát của sông Thu Bồn và sự bồi lấp của sông Cổ Cò nên các tàu buôn lớn khó cập bến Hội An. Do những biến động của địa hình sông nước và tình hình kinh tế, chính trị thời Nguyễn, Đà Nẵng ngày càng phát triển và thay thế dần vai trò của Hội An. Năm 1888, khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của Pháp thì thành phố cảng này đi vào quá trình cận đại hóa dưới tác động của chủ nghĩa thực dân.

Đến nay, địa danh Hội An không còn là thương cảng nhưng dấu ấn một thời vàng son của nó đã để lại những giá trị văn hóa vô giá. Chính vì lý do đó, Hội An được Chính phủ Việt Nam công nhận là Di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc gia và tháng 12-1999, được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới./.

Thu Trang