QĐND Online – “Từ khi bước chân xuống tàu chở vũ khí vào Nam, 5 năm ở chiến trường, tôi đã trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu và chứng kiến nhiều sự việc; có những mất mát đau thương, có những giây phút hào hùng và có những kỷ niệm sâu sắc có lẽ suốt cuộc đời tôi không thể nào quên được”, đó là tâm sự của Thượng úy Trịnh Kim Quyền, chiến sĩ của Đoàn tàu không số năm xưa, khi được hỏi về những kỷ niệm khó quên trong thời gian thực hiện nhiệm vụ trên con đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại.
Sinh ra và lớn lên ở thôn Hành Cung, xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, tháng 2 năm 1964, chàng trai Trịnh Kim Quyền gia nhập Hải quân. Thời gian ấy, chiến sự ở mặt trận phía Nam xảy ra rất ác liệt, cần có sự chi viện của miền Bắc cả về người và vũ khí. Cuối tháng 3 năm 1969, ông được điều về đoàn M26, đặc công nước Hải quân để bổ sung cho các đơn vị đặc công Cửa Việt, miền Trung và đồng bằng Nam bộ.
Bộ phận của ông gồm có 17 người nằm cạnh trung đoàn 126 ở thị trấn Tiên Yên (Quảng Ninh). Không ai biết bộ phận này sẽ làm gì, sẽ chiến đấu theo hình thức nào mà lúc huấn luyện lại khắt khe đặc biệt đến thế. “Khi đó, chúng tôi như là con cưng của Lữ đoàn 126 đặc công nước. Hàng ngày được huấn luyện riêng, tiêu chuẩn chế độ riêng, cũng tách hẳn sinh hoạt riêng và luôn tuyệt đối giữ bí mật”, ông Quyền nhớ lại.
“Sau huấn luyện, bộ phận chúng tôi được tách ra thành 2 tổ, tổ Z1 và tổ Z2. Tôi thuộc Tổ Z1 có Tổ trưởng, Thuyền trưởng phóng lôi là anh Ba T; Tổ phó là anh Giai, trợ lý hàng hải; anh Hưng, chuẩn úy làm cơ yếu; anh Đoàn, anh Cương làm vô tuyến, tôi và anh Loát là chiến đấu viên.
 |
CCB Đoàn tàu không số Trịnh Kim Quyền. Ảnh: Hoài Thắng.
|
Cuối tháng 8-1970, hai tổ Z1 và Z2 bí mật chuyển về đoàn M25 – Đoàn tàu không số - đơn vị đặc biệt chuyên chở vũ khí vào miền Nam. Hàng ngày, chúng tôi không được ra khỏi doanh trại, không được tiếp xúc với bất kỳ ai, kể cả người nhà, không tiết lộ nhiệm vụ, nơi đóng quân, phiên hiệu đơn vị, tên người chỉ huy. Thư từ gửi về gia đình đều phải qua kiểm duyệt.
6 giờ tối ngày 5-9-1970, tổ Z1 được lệnh: ra cảng xuống tàu. Quân tư trang được đóng gói trong ba lô, nhét vào túi ni-lon không thấm nước. Tôi nhớ khi đó mỗi người được trang bị một khẩu K54, một dao găm, 2 quả lựu đạn mỏ vịt, một khẩu AK báng gấp, một bi đông nước và một ít lương khô. Tổ còn được cấp trên giao cho 3 chiếc hòm to, bên ngoài bọc kẽm, hàn xì cẩn thận. Không ai biết trong đó đựng gì, chỉ biết khi đến địa điểm phải chôn giấu kỹ, có lệnh mới được sử dụng.
Tàu rời cảng lúc 10 giờ đêm theo hướng cửa Nam Triệu ngược lên phía Bắc qua vịnh Hạ Long. Quá nửa đêm, tàu cặp mạn một tàu khác đã đậu sẵn trong căn cứ, xung quanh là núi non hiểm trở, chỉ có một lối ra vào rất bí mật. Con tàu mới sơn lại không có cờ hiệu, không có số hiệu, chở đủ mớn nước. Lúc đấy anh em mới biết con tàu do Thuyền trưởng Dương Tấn Kịch, Thuyền phó Vũ Hữu Suông cùng thủy thủ đoàn và 7 anh em trong tổ Z1 sẽ chính thức đưa 40 tấn vũ khí vào một điểm X. ở miền Nam.
Sau đó, con tàu tiếp tục hành trình về hướng Đông Bắc ra biển Đông và vào vùng biển quốc tế. Từ đó trở đi, xa bờ, xa đất liền, biển mênh mông, hun hút một màu đen thăm thẳm, hai bên mạn tàu song dập dềnh, nghiêng ngả. Dưới vỏ bọc là tàu đánh cá ngoại quốc nên trên tàu giăng đầy chài lưới để ngụy trang. Ban ngày, máy bay trinh sát địch dòm ngó, gọi loa dụ dỗ, đe dọa, đánh đòn tâm lí xem có phải là tàu Bắc Việt không. Các tàu khu trục cũng lừ lừ bám theo sau, lúc ẩn, lúc hiện rồi mất hút vào vùng biển quốc tế…
Tám ngày sau, đúng 12 giờ đêm, lệnh quyết tâm đổ bộ đã được triển khai, tàu mở hết tốc độ lao vào địa điểm đã định. Đến gần bờ, chúng tôi dùng xuồng cao su chở trang bị và 3 chiếc hòm, 7 anh em nhảy xuống biển, bám vào xuồng, vừa bơi vừa đẩy, im lìm tiếp cận vào bờ, tránh mọi tiếng động. Do được huấn luyện cơ bản nên anh em thực hiện động tác rất thuần thục. Khi chân vừa chạm cát, tôi và anh Loát nhanh chóng cầm súng quan sát từ mép nước rồi đứng cảnh giới để anh em nhanh chóng vượt qua bãi cát trống khoảng 100 mét đến một cánh rừng. Địa điểm mà chúng tôi lên bờ là một khu rừng rậm với những bụi cây lằng nhằng, chằng chịt, không biết đó là cây gì. Chúng tôi phải hết sức cẩn thận làm các động tác dò mìn, trái nổ, tìm một chỗ kín, an toàn, có cát để chôn toàn bộ vũ khí, mấy cái hòm kẽm và hai cái xuồng cao su. Quần áo ai cũng ướt đẫm nước biển mặn chát; chúng tôi khẩn trương dò dẫm, thận trọng tiến sâu vào trong rừng. Không biết đây là đâu, địa phương nào, chỉ nhìn thấy một màu đen kịt, dây rợ lằng nhằng vướng cả chân lẫn cổ.
Khi tìm được vị trí an toàn, chúng tôi xóa sạch các dấu vết, tìm nơi ẩn nấp để chờ trời sáng. Tổ trưởng ra lệnh tản ra mỗi người cách nhau khoảng 5-10m để bảo đảm bí mật, không nói chuyện, không tiếng động và phải luôn đề cao cảnh giác. Bấy giờ mọi người mới thấy đói, thấy rét và mệt mỏi nhưng chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra nên không ai dám nghỉ ngơi. Nằm trong rừng, không có tiếng súng, không có thông tin gì về địa điểm mà chúng tôi đã đổ bộ. Với sự im lặng của rừng, thời gian trôi đi thật căng thẳng. Một ngày sau, tổ trưởng cho mắc ăng ten mở máy liên lạc với Bộ Tư lệnh Hải quân chờ chỉ thị. Mãi 5 giờ sáng hôm sau nữa mới nhận được ám hiệu, mật khẩu bắt liên lạc với cơ sở: Nếu thấy một người ăn mặc như dân chài, đầu đội mũ phớt, một tay áo sắn lên, một tay cầm cành cây giơ lên hạ xuống thì đó là người của ta...
 |
Các CCB Hội truyền thống Đoàn tàu không số tỉnh Ninh Bình vẫn thường xuyên tụ họp, ôn lại kỷ niệm.
|
Chúng tôi tiếp tục chờ đợi rồi đúng như đã thông báo, từ xa, một người đàn ông vóc người nhỏ bé đi chậm ngoài mép nước với dáng điệu vừa đi vừa quan sát vào bìa rừng và các động tác rất giống ám hiệu tổ trưởng vừa phổ biến. Tổ trưởng ra lệnh cho tôi men theo lối cũ trở ra bìa rừng, tìm cách tiếp cận, bắt ám hiệu, dùng mật khẩu liên lạc xem có phải đúng người của cơ sở không. Đang núp trong lùm cây khi người đó đi qua tầm gần nhất, tôi kẹp sát nách khẩu AK sẵn sàng nhả đạn nếu người đó nói không đúng mật khẩu và có ý chống trả rồi nhảy ra trước mặt làm anh ta dừng lại luống cuống. Tôi quát lên: Chiến!.. Rất nhanh người đó vội giơ tay lên vẫy và trả lời: Thắng. Đúng mật khẩu rồi, người chiến sĩ Nam bộ không sợ nguy hiểm lao về phía tôi, anh reo lên:
- Tôi đây mà anh Hai, tôi được chỉ huy giao nhiệm vụ bắt liên lạc và đón các anh đây mà. May quá, may quá!!!
Anh ôm chầm lấy tôi thắm thiết. Lúc ấy, tôi mới cảm nhận được sự vĩ đại của cuộc kháng chiến và tình cảm anh em Nam Bắc một nhà cũng như nghĩa tình đồng đội… Chúng tôi ôm nhau trong khi phía sau, 6 khẩu AK của anh em trong tổ Z1 đứng bảo vệ tôi từ từ hạ xuống. Nhìn mọi người, tôi thấy ai cũng rơm rớm nước mắt.
Người chiến sĩ Nam bộ cho chúng tôi biết: vùng này là nơi đóng quân của Đoàn 962, Quân khu 8 đón nhận các chuyến hàng chở vũ khí từ miền Bắc vào. Nơi anh em tôi đứng là bờ biển của xã Thạch Phong, huyện Thạch Phú, tỉnh Bến Tre. Anh cho biết: “Từ lâu không được chuyến vũ khí nào của miền Bắc chi viện nên các tỉnh ở vùng Nam bộ này không có vũ khí chiến đấu. Mỗi khẩu súng chỉ có 3 viên đạn, lệnh trên không cho sử dụng, khi gặp địch đi càn chỉ dùng vũ khí thô sơ, tự tạo để đánh trả hoặc rút lui, không dám đối mặt. Vì vậy, nhận được số vũ khí này anh em mừng lắm”.
Chúng tôi được dẫn về căn cứ ở giữa rừng mênh mông, heo hút. Mấy hôm sau, chúng tôi đi tìm dấu vết, lấy toàn bộ vũ khí và mấy cái hòm kẽm về chuẩn bị cho nhiệm vụ. Trong hòm có máy điện đài, tài liệu cơ yếu, lương thực, thuốc men, cả những điếu thuốc lá và cả bộ đồ cắt tóc…
Nhờ chuyến đổ bộ thành công của tổ Z1 và sự chi viện vũ khí của miền Bắc đã giúp cho quân và dân vùng đất miền Tây Nam bộ đã có nhiều trận đánh thắng lợi…
Với bản thân ông Quyền, sau chuyến đi này nhận nhiệm vụ ở lại địa bàn tổ chức bến bãi, bảo vệ bến, phục vụ chiến đấu để đón các chuyến hàng tiếp theo từ miền Bắc vào miền Nam… Đến tháng 9-1975, sau khi hòa bình, ông được điều về Đoàn 125 Hải quân, trở về miền Bắc tiếp tục công tác, rồi nghỉ hưu năm 1982.
Phúc Thắng-Trần Hoài (Ghi theo lời kể của CCB Trịnh Kim Quyền)