Kỳ 5: Người kể chuyện đường mòn trên biển
QĐND - Ngôi nhà nhỏ của ông Trần Ngọc Tuấn - nguyên chính trị viên các tàu không số 43, 55 và 56 - ở địa chỉ A9/1B đường Đặng Tất, tổ 8, phường Vĩnh Hải, Nha Trang (Khánh Hòa) thường xuyên có các bạn trẻ tìm đến để được nghe chủ nhà kể chuyện “đường mòn trên biển”. Năm nay đã bước vào tuổi "xưa nay hiếm" nhưng ông Trần Ngọc Tuấn vẫn say sưa với công việc yêu thích của mình là viết báo, viết sách và kể chuyện về Đoàn tàu không số.
“Chính trị viên ở lại chiến đấu, trả thù cho em với !”
Trước buổi được trò chuyện cùng ông, chúng tôi đã tìm đọc cuốn sách “Nhớ về những con tàu không số” do ông (Trần Ngọc Tuấn) cùng hai cựu chiến binh Đoàn tàu không số là Hồ Đắc Thạnh và Phan Nhạn viết. Cuốn sách của 3 ông tuy mỏng, nhưng khắc họa rất sinh động câu chuyện về đời sống sinh hoạt, học tập, chiến đấu của những con tàu không số. Vì vậy, lần này, chúng tôi trình bày rõ là muốn được ông kể chuyện mình đã thể hiện vai trò chính trị viên-điểm tựa tinh thần cho cả con tàu như thế nào. Dường như, câu hỏi của các nhà báo trẻ “hậu bối” đã khơi lại mạch nguồn ký ức sâu thẳm khiến ông hào hứng:
- Trúng đó! Nói đến Tàu không số là nói đến ý chí, đoàn kết, sáng tạo của tập thể tàu và từng chiến sĩ. Vì vậy, bên cạnh các thuyền trưởng, không thể không nhắc đến các chính trị viên, họ là "điểm tựa" của tàu. Nhiều chính trị viên đã dũng cảm hy sinh, lịch sử Đoàn tàu không số ghi nhận rất nhiều tấm gương chính trị viên được truy tặng, phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.
 |
Ông Trần Ngọc Tuấn. |
Rồi ông kể chúng tôi nghe kỷ niệm giữa ông-người chính trị viên với các thủy thủ. Đặc biệt, trong chuyến đi cảm tử của Tàu 43 do đồng chí Nguyễn Đắc Thắng làm Thuyền trưởng, ông làm Chính trị viên, vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Cùng đi với tàu ông đợt đó còn có 3 tàu: Tàu 165 do Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm và Chính trị viên Nguyễn Ngọc Lương chỉ huy, Tàu 235 do Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và Chính trị viên Nguyễn Tương chỉ huy, Tàu 56 do Thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba và Chính trị viên Đỗ Văn Sạn chỉ huy. Đợt này, cả 4 tàu đều bị địch vây rát, 3 tàu đều đã phải xử trí bằng cách hủy tàu rồi chiến đấu không cân sức với địch. Chỉ riêng Tàu 56 là tránh được hủy tàu, vòng vèo tránh địch rồi đành quay lại bến.
“Tàu 43 chúng tôi gồm 17 thủy thủ, được giao chở 37 tấn vũ khí chi viện cho chiến trường Đức Phổ (Quảng Ngãi), xuất bến ngày 27-2-1968. Trên đường đi, máy bay và tàu chiến địch đã phát hiện và bám riết các hoạt động của chúng tôi. Lúc 14 giờ ngày 29-2-1968, một máy bay trinh sát của địch đến lượn 4 vòng quanh tàu rồi bỏ đi. Lúc 0 giờ 50 phút ngày 1-3-1968, chúng tôi ở vị trí 14,19 độ Vĩ Bắc và 109, 04 độ Kinh Đông thì gặp 6 tàu chiến địch đến bao vây. Khoảng 20 phút sau, pháo hạm của địch bắn cấp tập, pháo vừa dứt thì 8 chiếc tàu cao tốc của địch dàn hàng tấn công. Lúc này, tôi và thuyền trưởng nhận định địch chưa dám chắc tung tích tàu ta nên lệnh cho bộ đội tạm thời không đánh trả. Đến đợt thứ hai, khi hai chiếc tàu địch lao vào tàu ta với khoảng cách chỉ còn 100m, chúng tôi bất ngờ nổ súng, diệt một tàu cao tốc của địch ngay từ loạt đạn đầu. Tiếp theo đó, địch cho máy bay trực thăng HUIA đến bắn như vãi đạn xuống Tàu 43. Chúng tôi dùng súng máy 12,7mm bắn cháy một chiếc rơi ngay xuống biển. Tiếp đó là cuộc chiến với máy bay, tàu chiến, pháo hạm của địch. Một viên đạn pháo rơi trúng khiến Tàu 43 chao đảo. Tôi phải cơ động đến các vị trí động viên anh em giữ vững quyết tâm chiến đấu. Lúc vào buồng lái, thấy thủy thủ Vũ Xuân Ruệ đã bị thương nặng. Toàn thân Ruệ ngã xuống sàn nhưng tay vẫn ghì chặt vòng lái. Tôi liền gỡ tay Ruệ, điều thủy thủ Lưu Công Hào vào lái thay rồi quay ra băng bó cho Ruệ. Vết thương của Ruệ quá nặng, cậu ấy nắm lấy tay tôi nói khẽ: “Chính trị viên ở lại chiến đấu, trả thù cho em với”. Rồi Ruệ hy sinh ngay trên tay tôi...”.
Mặc cho địch vây đánh tứ bề, Tàu 43 vẫn ngoan cường chống trả và tiến gần vào bến. Chính trị viên Tuấn là người ở lại chỉ huy đánh bộc phá hủy tàu, còn toàn tàu đem theo vũ khí đổ bộ đánh chiếm địa hình có lợi. Lúc này, con tàu rộng chưa đầy 40m2 đã trở thành mục tiêu cố định cho các loại đạn pháo địch trút xuống. Nhưng Chính trị viên Tuấn vẫn bình tĩnh đi kiểm tra từng vị trí điểm hỏa rồi mới hạ lệnh. Tốp đánh bộc phá đồng loạt nhảy xuống biển, bơi vào bờ. Con tàu bùng lên như ánh chớp, tiếng nổ xé trời đã khiến con tàu tan tành, mất dấu tích.
Ghi sâu tình dân
Chuyến đưa vũ khí vào Nam dịp Tết Mậu Thân 1968 còn để lại cho ông Tuấn kỷ niệm sâu sắc về tình quân dân. Ông Tuấn kể: “Khi bộc phá hủy tàu nổ vang, nhân dân quanh vùng biết ngay đó là Quân Giải phóng phá tàu cảm tử. Vì vậy, khi lên bờ, chúng tôi đã nằm trong vòng tay che chở của đồng bào thôn Quy Thiện, xã Phổ Hiệp (Quảng Ngãi). Quân Mỹ tiến vào làng, đồng bào đưa chúng tôi vào hầm bí mật. Ngồi dưới hầm nghe tiếng giày Mỹ nện rầm rầm trên nắp hầm, chúng tôi hiểu sâu sắc hơn tấm lòng, tình cảm của nhân dân dành cho cách mạng. Mười ngày đêm nằm hầm trong tình trạng thương vong, nếu không có sự đùm bọc, che chở của người dân, chắc chúng tôi khó có thể trở về. Rồi chúng tôi được du kích cáng lên bệnh xá của bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Hai lần đi đều gặp địch, buộc phải quay lại và đến đêm thứ ba mới về trạm xá trót lọt”.
Trong thời gian điều trị tại bệnh xá, ông Tuấn và các đồng đội đã được bác sĩ Đặng Thùy Trâm ghi lại trong những dòng nhật ký hào hùng của riêng mình. Hình ảnh người bác sĩ trẻ tuổi từ thủ đô Hà Nội lặn lội vào đây sát cánh cùng nhân dân trong cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đã khiến Chính trị viên Tuấn và các thủy thủ cảm động vô ngần. Ông nói: “Bản lĩnh, ý chí của Thùy Trâm cùng tấm lòng của người dân Quy Thiện chính là liều thuốc nuôi dưỡng chúng tôi khắc phục mọi khó khăn, khổ ải khi vượt Trường Sơn, trở ra miền Bắc, nhận lại tàu để tiếp tục con đường chiến đấu”.
Hết lời ca ngợi bác sĩ, Anh hùng LLVT nhân dân Đặng Thùy Trâm như vậy, nhưng ông Tuấn không nói nhiều về mình, về cuộc đời chiến đấu cũng đầy gian khổ, hy sinh và rất nhiều hành động anh hùng của bản thân ông. Ông Trần Ngọc Tuấn sinh năm 1933, tại thị trấn Tân An, Hiệp Đức, Quảng Nam. Năm 1953, ông vào Vệ quốc đoàn, tham gia kháng chiến chống Pháp ở chiến trường Hạ Lào. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, học tại Trường Sĩ quan Lục quân và Trường 45 Hải quân. Từ năm 1963 đến 1971, ông liên tục công tác trên những con tàu không số, đảm nhiệm chức vụ Chính trị viên, Bí thư Chi bộ các tàu: 43, 55 và 56, lập được nhiều chiến công, cùng với đồng đội tổ chức 9 chuyến vượt biển vận chuyển vũ khí vào các tỉnh Quảng Ngãi, Bà Rịa-Vũng Tàu, Trà Vinh.
Chuyến đi lập thành tích xuất sắc nhất của Chính trị viên Trần Ngọc Tuấn là chuyến vào bến Lộc An (Bà Rịa-Vũng Tàu) cuối năm 1964. Tháng 10-1964, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho LLVT miền Nam mở chiến dịch hoạt động Đông-Xuân 1964 - 1965 nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng của quân chủ lực ngụy để mở rộng vùng giải phóng. Tàu 56 do Trần Ngọc Tuấn làm Chính trị viên, Lê Quốc Thân làm Thuyền trưởng, được giao nhiệm vụ đi đột phá chiến dịch. Đây là chuyến chở bằng tàu sắt, có trọng tải gần 100 tấn nên được xác định vô cùng khó khăn. Bởi vùng biển tàu phải vào thuộc khu vực Bà Rịa-Vùng Tàu, nằm ở phía đông cửa ngõ Sài Gòn, địch tập trung phòng thủ dày đặc cả dưới nước, trên bờ, trên không. Đặc biệt, bến Lộc An nằm sâu trong sông Ray, có rất nhiều cồn cát chắn ngang, chỗ sâu, chỗ nông không xác định được nên rất dễ bị mắc cạn. Tối 18-12-1964, tàu được lệnh tiếp tục xuất phát khởi hành vào Nam. Sau hai ngày đêm, Tàu 56 đã bắt được tín hiệu từ ngọn hải đăng Bảy Cạnh, từ đó xác định vị trí tàu và hướng đi chính xác để sẵn sàng cập bến. Lợi dụng lúc sóng to, gió lớn, Tàu 56 luồn lách qua nhiều đảo cát, khéo léo lọt qua các tuyến phong tỏa do hải quân địch kiểm soát, đến 21 giờ ngày 22-12, tàu mới vào được cửa sông. Tuy nhiên, tín hiệu phát đi mãi vẫn không thấy trong bến trả lời, thậm chí hai thủy thủ bơi vào bờ bắt liên lạc cũng không có tín hiệu đáp trả. Sau nhiều giờ căng thẳng, Chính trị viên Tuấn và Thuyền trưởng Thân hội ý và quyết định ra lệnh cho tàu tiếp tục vào bến. Đến 22 giờ 30 phút, tàu vào bến Lộc An an toàn; nơi đây chỉ cách đồn Nước Ngọt của địch khoảng 1km; cách đồn Phước Hải 2km và cách Vũng Tàu 15km. Lúc này, trên tàu mới biết, trinh sát của bến vẫn đón tàu từng đêm, nhưng hôm nay do thấy tàu lớn quá, nghĩ rằng không thể là tàu ta nên không dám phát tín hiệu. Thậm chí, hai thủy thủ vào liên lạc với bến cũng bị bắt vì không ai tin. Tàu vừa vào bến, lập tức đã có Trung đoàn 2, Sư đoàn 9 chờ sẵn, nhận vũ khí rồi biên chế luôn. Bởi thời gian này, Chiến dịch Bình Giã đang đến hồi quyết liệt, nhưng vì thiếu vũ khí nên bộ đội ta phải ém quân chờ suốt 4 ngày đêm để tiếp nhận thêm vũ khí ở miền Bắc chuyển vào. Nhờ kịp thời chi viện vũ khí, khí tài, đạn dược, Chiến dịch Bình Giã của ta đã giáng một đòn sấm sét vào quân chủ lực của Mỹ-ngụy, thắng lợi lớn với 5 trận đánh cấp trung đoàn, 2 trận cấp tiểu đoàn; diệt gọn 2 tiểu đoàn địch, 1 chi đoàn xe bọc thép, đánh thiệt hại 3 tiểu đoàn khác; nhiều ấp chiến lược ven đường số 2, đường 15 thuộc huyện Đất Đỏ, Long Thành, Nhơn Trạch bị phá tan, vùng căn cứ được mở rộng đến sát biển.
“Chiến dịch Bình Giã thắng lợi giòn giã, đập tan chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của địch. Với những chiến sĩ tàu không số, đó chính là tấm huân chương lớn nhất mà chúng tôi được trao tặng” - ông Tuấn say sưa nói vậy. Dường như, kỷ niệm cũ đang đem những hào khí anh hùng thời trai trẻ sống dậy trong ông.
---------------
Kỳ 1: Anh hùng Bông Văn Dĩa - cá kình Biển Đông
Kỳ 2: Bản lĩnh anh hùng Đặng Văn Thanh
Kỳ 3: Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu - sự “trở về” kỳ diệu
Kỳ 4: Người cầm ngọn cờ chuẩn của Tàu 56
Kỳ 6: Hồ Đức Thắng - người anh hùng thầm lặng
Bài và ảnh: Hồng Hải - Trịnh Dũng