Kỳ 6: Nắm đất của Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh
QĐND - Có biết bao câu chuyện cảm động về tình cảm, tấm lòng của quân dân miền Nam nơi bến bãi với cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu không số làm nhiệm vụ chở vũ khí chi viện cho chiến trường. Chuyện về nắm đất Vũng Rô - hiện vật đang được lưu giữ tại Bảo tàng Hải quân do Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh trao tặng là một trong những câu chuyện đó.
Chúng tôi gặp ông Hồ Đắc Thạnh - người thuyền trưởng Tàu không số nổi tiếng của tỉnh Phú Yên ngay tại Hải Phòng. Dường như chất lính vẫn còn đọng lại rất nhiều trong ông ở dáng dấp nhanh nhẹn, âm giọng Phú Yên dõng dạc và đôi mắt sắc sảo... đôi khi làm chúng tôi bối rối. Tôi gợi lại chuyện, hỏi thêm về nắm đất năm xưa ông đã trao tặng Bảo tàng Hải quân... Ông ồ lên: “Nhớ chứ, quên sao được...! Đó là câu chuyện cảm động, gắn với những chuyến hàng cảm tử vào Vũng Rô của chúng tôi mà...".
Ông Hồ Đắc Thạnh thuộc lớp thuyền trưởng đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam được đào tạo bài bản để phục vụ cho con đường vận chuyển chiến lược bí mật sau này. Thuở nhỏ, lúc Hồ Đắc Thạnh chuẩn bị vào lớp nhất thì Cách mạng Tháng Tám 1945 nổ ra ở thị xã Tuy Hòa. Lập tức, ông xếp bút nghiên tham gia đoàn biểu tình chống Pháp, đi diễu hành khắp phố phường. Sau một thời gian làm trinh sát cho thị đội Tuy Hòa, ông vào lực lượng bộ đội chính quy và tập kết ra Bắc trên chuyến tàu cuối cùng, chuyến tàu thứ 7 xuất phát từ cảng Quy Nhơn.
 |
Ông Hồ Đắc Thạnh (ngoài cùng, bên phải) cùng đồng đội tại Bến k15 Đồ Sơn (Hải Phòng). |
Ông kể: “Tôi đặt chân lên đất Thanh Hóa ngày 19-5-1955 và được biên chế vào Trung đoàn 90, Sư đoàn 324 đóng tại thị trấn Còng của huyện Tĩnh Gia, làm nhiệm vụ chống địch cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam”. Sau khi cùng sư đoàn hành quân về Đô Lương (Nghệ An) và xây dựng doanh trại tại đây, Hồ Đắc Thạnh được điều về trường huấn luyện hạ sĩ quan của Sư đoàn để đào tạo. Ông nhớ rõ: “Giữa năm 1958, khi tôi đang học được nửa khóa đào tạo trung đội trưởng thì được Quân chủng Hải quân về tuyển chọn, toàn Sư đoàn chỉ có 6 đồng chí được chọn. Chúng tôi được đưa xuống Hải Phòng và theo yêu cầu của Cục Phòng thủ bờ biển (tiền thân của Bộ tư lệnh Hải quân), anh em tôi được đi tuyển quân về huấn luyện thành bộ đội hải quân”.
Tại Hải Phòng, Hồ Đắc Thạnh đã trải qua nhiều khóa huấn luyện đào tạo từ hàng hải đến phóng ngư lôi và những chiến thuật chiến đấu khác trên biển. Đầu 1960, khi Trường Sĩ quan Hải quân được thành lập tại Quảng Yên, Thuyền trưởng dự bị tàu phóng lôi Hồ Đắc Thạnh được điều về học trường này.
Trong cuộc đời chiến đấu của mình, Hồ Đắc Thạnh cũng là một trong những người bạn thân thiết của Anh hùng Tàu không số Nguyễn Phan Vinh. Kể chuyện với chúng tôi, ông Thạnh luôn tự hào mình đã có 12 chuyến chở vũ khí vào các bến ở Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau, Quảng Ngãi và Phú Yên. Ông bảo, lần đầu tiên đưa vũ khí vào Nam Bộ, gặp những anh chị em dân công đi len lỏi trong rừng đước, bốc dỡ vũ khí, ông cảm thấy niềm vui khó tả vì đã trực tiếp góp sức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Có thể nói, hạnh phúc lớn nhất, kỷ niệm sâu sắc nhất của Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh là 3 chuyến chở vũ khí về quê hương. Những chuyến đi thật sâu nặng nghĩa tình. Đáng nhớ là lần ăn Tết trên con tàu không số và đó cũng là kỷ niệm liên quan đến câu chuyện về "Nắm đất Vũng Rô".
- Đó là khoảng cuối năm 1964, đầu năm 1965. Ông Thạnh nhớ lại. Có thể nói, đây là giai đoạn "hoàng kim" của con đường vận chuyển trên biển. Tàu 41 chúng tôi liên tiếp được giao nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào bến Vũng Rô thuộc chiến trường Khu V. Vũng Rô khi đó được coi là điểm đổ hàng lý tưởng vì đây là một vịnh nước sâu, kín gió, nằm ngay dưới chân đèo Cả. Tuy Vũng Rô không có nơi trú ẩn như các bến bãi miền Tây Nam Bộ, từ đây ra biển chỉ có một cửa, lại nằm trong tầm kiểm soát từ xa của địch, nguy hiểm luôn rình rập, nhưng Vũng Rô tạo được yếu tố bất ngờ cho công tác vận chuyển. Chuyến thứ nhất, rồi chuyến thứ hai, mọi việc đều thuận lợi, Tàu 41 đều lọt vào bến trong đêm an toàn. Hàng hóa, vũ khí được xử lý kịp thời bảo đảm tàu rời bến trước khi trời sáng.
Cũng phải kể thêm, những lần vào bến, anh em tôi luôn day dứt bởi điều kiện sinh hoạt, ăn uống của quân dân ở đây rất thiếu thốn. Do địch khống chế Quốc lộ 1A, cắt hết chi viện nên anh em thường xuyên phải ăn khoai mì và quả sung. Chính vì vậy, chuyến tàu thứ hai, ngoài 60 tấn vũ khí chúng tôi còn chở thêm 3 tấn gạo tám thơm của Bộ tư lệnh Hải quân gửi tặng dân quân Vũng Rô...
Chuyến đi thứ ba vào Vũng Rô được tiến hành đầu tháng 11-1964. Sau một chuyến hàng thành công từ Cà Mau trở về, ông Thạnh được Bộ tư lệnh Quân chủng Hải quân thông báo kế hoạch đưa vũ khí vào chiến trường Khu V, nơi chiến sự đang diễn ra ác liệt nhưng lại vô cùng thiếu thốn vũ khí. Chuyến đi này được dự báo là cam go, bởi địa điểm này rất dễ bị địch phát hiện do không có nơi trú ẩn an toàn, lại chỉ có một cửa ngõ ra Biển Đông duy nhất, đó là khoảng giữa Mũi Điện và Hòn Nưa, nếu địch dùng tàu chặn thì coi như không còn đường ra. Thêm nữa, hệ thống ra-đa Cù lao Ré và Chóp Chài gần như “quét” đầy đủ mọi ngóc ngách trên địa bàn. “Sau khi nghiên cứu kỹ hải đồ và tính toán chi tiết, Bộ tư lệnh quyết định chỉ đưa tàu vào lúc giữa đêm, tiến hành bốc dỡ vũ khí ngay và quay trở ra hải phận quốc tế vào lúc 3 giờ sáng” - ông Thạnh nhớ lại. Đó là phương án tối ưu, bởi nếu ở miền Nam, những rừng đước, rừng tràm rậm rịt chính là nơi có thể đưa tàu vào nghỉ ngơi, ở đây chỉ có biển và núi.
 |
Bia di tích Đoàn tàu không số tại Vũng Rô. |
Tàu 41 nhận lệnh cập bến Vũng Rô đúng đêm Giao thừa Tết Nguyên đán Ất Tỵ. Kể sao hết niềm vui sướng của anh em tàu và bến được nhận vũ khí vào thời khắc bước sang năm mới cùng lời chúc Tết của Bác Hồ kính yêu qua chiếc ra-đi-ô trên tàu. Mọi người tranh thủ liên hoan đón Tết. Bánh chưng, trà Thái Nguyên, bia Trúc Bạch, thuốc lá Điện Biên do anh em tàu chuẩn bị trước chuyến đi (đã được bóc hết nhãn mác để bảo đảm bí mật) được bày lên. Trong lúc đang liên hoan vui vẻ thì cô gái dân quân Nguyễn Thị Tản lặng lẽ đến bên Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh và trao cho ông một nắm đất bọc trong một cái khăn mùi xoa rất đẹp: “Em xin gửi nắm đất Phú Yên theo tàu các anh đi ra Bắc. Xin hứa với các anh, với Đảng và Bác Hồ, dù mảnh đất này bom cày, đạn xới nhiều lần nhưng chúng em vẫn giữ vững niềm tin chiến thắng vì đã có vũ khí của Đảng, của Bác từ miền Bắc chi viện”.
Thuyền trưởng Thạnh đón nhận nắm đất từ tay người con gái và chuyền nắm đất cho từng đồng đội. Khó có thể nói hết được tâm trạng anh em Tàu 41 lúc này. Mọi người càng nhận thấy trách nhiệm lớn lao của mình với mảnh đất và người dân nơi đây, với nhiệm vụ giải phóng quê hương, giải phóng miền Nam.
Đó là kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời quân ngũ của Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh. Hình ảnh xúc động đó đã theo ông trên khắp chặng đường binh nghiệp và cho tới tận bây giờ - khi ông đã trở về với đời thường tại thành phố Tuy Hòa (Phú Yên). Nắm đất của cô dân quân Nguyễn Thị Tản đã được cán bộ, thủy thủ Tàu 41 nâng niu, gìn giữ suốt chặng đường trở về miền Bắc và sau này ông Thạnh đã trao tặng cho Bảo tàng Hải quân. Hình ảnh người nữ dân quân Nguyễn Thị Tản trao nắm đất cho vị thuyền trưởng sau này đã được tái hiện bằng nghệ thuật điêu khắc tượng đồng đặt tại Nhà truyền thống Lữ đoàn 125 anh hùng.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Thuyền trưởng Tàu không số Hồ Đắc Thạnh tiếp tục công tác trong Quân chủng Hải quân. Năm 1984, đang đảm nhiệm chức vụ Phó tham mưu trưởng Vùng 3 Hải quân thì ông xin nghỉ hưu sớm để lo toan công việc gia đình... Nhiều đồng chí, đồng đội muốn làm hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho ông nhưng ông đã cảm ơn và nói muốn dành danh hiệu đó để tặng các liệt sĩ, đồng đội đã hy sinh trên con đường huyền thoại. Ông nói: “Tôi còn sống để chứng kiến đất nước thay da đổi thịt sau 36 năm giải phóng đã là điều rất mãn nguyện rồi”.
---------------
Kỳ 1: Thuyền trưởng tàu không số đầu tiên
Kỳ 2: Thuyền trưởng tàu sắt đầu tiên
Kỳ 3: Từ du kích trở thành thuyền trưởng
Kỳ 4: Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử
Kỳ 5: Đồng Xuân Chế: “Biển gọi tôi suốt cuộc đời”
Kỳ 7: Thuyền trưởng Lưu Đình Lừng và niềm tự hào về Tàu 42
Bài và ảnh: Trịnh Dũng – Thu Hương