Trong những năm qua, chúng ta đã tổ chức hội thảo về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào nhiều lần, nhưng chưa lần nào bàn chuyên đề về vai trò Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam trong mối quan hệ đặc biệt Việt-Lào và cũng chưa lần nào chúng ta làm được kỹ vấn đề này. Vì vậy Hội thảo khoa học lần này sẽ làm nổi bật vai trò quan trọng, những biểu trưng sinh động nhất của lực lượng Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam trong mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào.
Sự nghiệp liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, chúng ta giúp Lào toàn diện cả về chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội. Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam là lực lượng trực tiếp triển khai, tổ chức thực hiện các chủ trương chiến lược, các biện pháp cách mạng, đem lại kết quả cụ thể, tạo thành sức mạnh tổng hợp của chiến trường Đông Dương. Có thể nói, nó vừa là phương thức chiến lược, vừa là động lực chính trị thể hiện quyết tâm chiến lược của hai Đảng, hai dân tộc, phát huy các tiềm lực cách mạng của nhân dân hai nước nói chung, của nhân dân các bộ tộc Lào nói riêng theo kịp yêu cầu của chiến trường Đông Dương.
Lịch sử quan hệ giữa hai dân tộc đã có từ rất lâu. Từ thế kỷ 14, dưới thời của châu Pha Ngừm, sau khi thống nhất đất nước, đã đặt quan hệ với Đại Việt, xác định biên giới, xây dựng quan hệ chiến lược lâu dài.
Tiếp tục các thế kỷ 15, 16, 17, 18, mỗi lần hai nước gặp khó khăn, nguy hiểm, bị xâm lược, thì hai nước, hai dân tộc Việt Nam, Lào lại nương tựa vào nhau để phục hồi đất nước, đó là yêu cầu sinh tồn khách quan của biên giới láng giềng; tuy là bản năng, tự phát, nhưng cũng là tiền đề lịch sử, tiền đề của lòng tin, của khả năng hợp tác sau này.
Đến đầu thế kỷ 20, sau khi cách mạng Nga thành công, sau những năm tháng xuất dương, bôn ba đi tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đưa ảnh hưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa về Đông Dương, xây dựng cơ đồ chống đế quốc, giải phóng các dân tộc. Người cho rằng, muốn giải phóng Đông Dương thì ba dân tộc Đông Dương phải đoàn kết, chung sức, chung lòng mới đánh được bọn xâm lược, đó cũng là điều kiện cơ bản, then chốt nhất để nhân dân 3 nước đoàn kết chống lại kẻ thù chung. Tuy nhiên, do tiềm lực cách mạng của mỗi nước khác nhau, nước nào có phong trào cách mạng trước, tốt hơn phải giúp nước có phong trào sau còn yếu và việc giúp đỡ nhau phải xem là tự giúp mình, là nhiệm vụ thiêng liêng của người cộng sản. Như vậy, khả năng thành công của ba dân tộc Việt – Miên – Lào nhất định sẽ thu được kết quả, vì cả ba dân tộc đều cơ cực, đều chịu cảnh làm nô lệ cho đế quốc. Cả ba dân tộc đều căm thù đế quốc sâu sắc, sôi sục, đó chính là những nhân tố rất cơ bản của sự đoàn kết, tự giác phát triển phong trào cách mạng của mỗi nước.
Nhưng phải làm gì để tạo ra sức mạnh tinh thần, vật chất, đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh vũ trang chống xâm lược?
Phong trào cách mạng ở Lào tuy có nhưng còn yếu và lẻ tẻ. Trước năm 1945, có những cuộc đấu tranh ở Phôn Tiêu, Lạc Sao, đường 13, đường Bách Khoa, xưởng Giấy Ca pha… đòi cải thiện đời sống, nòng cốt của phong trào phần đông là Việt kiều. Đến tháng 8 năm 1945, khi Nhật đầu hàng Đồng minh, tuy thời cơ đã đến, nhưng phong trào nổi dậy của nhân dân để chớp lấy thời cơ còn yếu. Trước tình hình cách mạng ở từng nước phát triển không đồng đều, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Đông Dương là phải phân bổ lại lực lượng cách mạng cho phù hợp, giúp đỡ những nơi cơ sở cách mạng còn yếu, và đó chính là tiền đề để ngày 30-10-1949, Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định phải thống nhất các lực lượng, có nhiệm vụ, có chức năng, có hệ thống rõ ràng, mới đủ sức giúp Lào, huy động được toàn thể các bộ tộc Lào thành một lực lượng chiến lược, ở một hướng chiến lược trọng yếu, chia cắt được quân thù, làm cho quân thù giảm sức mạnh, giảm khả năng giành chiến thắng trên chiến trường của chúng. Từ đó, Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào được tổ chức thành hệ thống riêng, lấy tên là Quân tình nguyện, đây chính là một phương thức chiến lược, vừa là động lực quan trọng để khơi dậy, tập hợp các tiềm lực cách mạng của Lào, thành một lực lượng thực sự, phối hợp chặt chẽ với chiến trường Đông Dương.
Từ bối cảnh ra đời của Quân tình nguyện như trên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, nổi lên ba đặc thù rất cơ bản như sau:
Một là: Sự nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ liên minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Quân tình nguyện: “Giúp Bạn là tự giúp mình”. Vì sao là tự giúp mình? Vì một mình Việt Nam đứng lên không thể đánh đổ được bọn xâm lược.
Ta muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thắng lợi, phải có sự tham gia chống xâm lược của cả ba nước Việt – Miên – Lào nói chung và của nhân dân Lào nói riêng. Như vậy, giúp Lào thực sự là một cuộc vận động liên minh chiến đấu cần thiết, là một yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào.
Nhưng giúp Lào cụ thể là làm gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Sang giúp Lào thực sự là làm cách mạng ở Lào”. Như thế có phải là làm thay, ngược lại nguyên tắc cách mạng nước nào thì dân tộc ấy phải tự làm? Ở đây không có chuyện làm ngược lại nguyên tắc, mà do điều kiện cụ thể đặt ra nhiệm vụ cho người cộng sản Đông Dương. Ba dân tộc Đông Dương đều là dân nô lệ dưới ách thống trị của một tên Toàn quyền, cùng dưới một chế độ cai trị. Đặc biệt, chúng ta có một Đảng Cộng sản thống nhất, vì vậy, trách nhiệm của người cộng sản Đông Dương trên cả xứ Đông Dương đều là địa phận hoạt động của mình. Đảng Cộng sản Đông Dương có trách nhiệm phân bổ lực lượng của Đảng trong tình hình cần thiết. Phong trào ở Đảng bộ Ai Lao đang yếu thì Đảng viên Cộng sản Việt Nam phải sang cùng nhân dân Lào xây dựng phong trào, tổ chức thành lực lượng chiến đấu, kịp thời đáp ứng với yêu cầu của chiến trường Đông Dương.
Hai là: Quân tình nguyện là một đội quân có năng lực toàn diện cả về quân sự, chính trị…đáp ứng được các nhu cầu của thực tiễn tình hình Lào. Giúp Lào vận động nhân dân làm cách mạng, không phải chỉ tuyên truyền giải thích đường lối, quan điểm, mà phải ba cùng với cán bộ, nhân dân Lào. Vừa công tác, vừa chiến đấu, vừa sản xuất, làm công tác xã hội, giúp dân chữa bệnh, đỡ đẻ, dệt vải, làm muối, xây dựng nhà, bản… Trong chiến đấu thì huấn luyện, hướng dẫn cách sử dụng vũ khí, dìu dắt làm nhiệm vụ tự vệ, du kích, đánh trận nhỏ, lẻ tiến lên đánh được địch ở đồn lẻ đến căn cứ lớn… Đặc thù này nói lên biểu trưng về năng lực đa dạng của Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam.
Ba là: Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự phải thể hiện một nhân sinh quan cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sống, chiến đấu vì hạnh phúc của dân tộc Lào. Xem đất nước Lào là quê hương của mình, thương yêu bố, mẹ, anh em Lào như ruột thịt của mình, chia sẻ thiếu thốn, khó khăn, gian khổ, không kêu ca, phàn nàn, không tơ hào một chút tư lợi riêng. Sẵn sàng quên mình để che chở Bạn, sẵn sàng hy sinh cả xương máu trong chiến đấu.
Suốt 60 năm chung thủy, gắn bó, những hành động trên tiêu biểu cho đạo đức cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giáo dục. Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam đã thực hiện tốt lời dạy của Người. Đó là biểu trưng về đạo lý, về văn hóa Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, đã tô đẹp thêm bản chất quân đội, tô đẹp thêm lịch sử dân tộc và kết quả là đã góp phần cho cách mạng Lào giành được thắng lợi, xây dựng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân trong lịch sử Lào.
Nhân dịp Tổng kết công tác của Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam năm 1975, đồng chí Tổng bí thư Đảng NDCM Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hẳn đã phát biểu: “Sự giúp đỡ của Việt Nam là một trong những nhân tố quyết định của thắng lợi cách mạng Lào. Các đồng chí chiến sĩ quốc tế, đặc biệt là Việt Nam, chấp hành chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, yêu nhân dân Lào như bố, mẹ, anh em ruột thịt của mình, đồng cam, cộng khổ, hạt gạo cắn đôi, cọng rau chẻ nửa, nhận khó khăn về mình, dành thuận lợi cho Bạn. Kề vai sát cánh chiến đấu, sống chết bên nhau trong từng chiến hào, trên khắp chiến trường trong cả nước, với tinh thần anh dũng tuyệt vời. Trên mọi chiến trường của Tổ quốc thân yêu của chúng tôi đều có xương máu của các chiến sĩ quốc tế Việt Nam hòa lắng với xương, máu của các cán bộ và chiến sĩ, nhân dân các bộ tộc Lào”.
Phát biểu trên của cố Tổng bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hẳn đã nói lên đầy đủ sự hy sinh quên mình cao cả của Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhân dân các bộ tộc Lào, góp phần tô thắm thêm tình đoàn kết keo sơn, gắn bó và thể hiện rõ nhất tính biểu trưng của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào.
Thiếu tướng HUỲNH ĐẮC HƯƠNG*
(*) Trưởng ban liên lạc Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam.