QĐND - Nhân quyền là khát vọng chung và thành quả đấu tranh của nhân loại qua các giai đoạn phát triển. Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là phấn đấu bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người cho mọi người dân trong đó có quyền "tự do đi lại", quyền xuất cảnh và nhập cảnh.
Nghị quyết số 217A (III) ngày 10-12-1948 của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, trong đó nêu rõ: "Mỗi người đều có quyền rời khỏi một quốc gia, kể cả chính quốc gia mình và có quyền trở lại quốc gia mình". Ở nước ta, quyền xuất cảnh, nhập cảnh của công dân được Hiến pháp ghi nhận. Ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, tại Điều 10 quy định: "Công dân Việt Nam có quyền tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài". Các Hiến pháp năm 1959, 1980 tiếp tục ghi nhận "quyền tự do đi lại" (trong đó có quyền xuất cảnh, nhập cảnh) của công dân. Đến Hiến pháp năm 1992, quyền xuất cảnh, nhập cảnh của công dân được quy định rõ ràng, cụ thể hơn ở Điều 68: "Công dân có quyền tự do cư trú, đi lại trong nước, có quyền đi ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật".
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Nhà nước ta luôn quan tâm bảo đảm quyền xuất cảnh, nhập cảnh của công dân, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước và bối cảnh tình hình thế giới và khu vực. Ngay từ năm 1959, khi đất nước còn đang bị chia cắt, cả nước tập trung cho hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 389/TTg ngày 27-10-1959, quy định việc cấp hộ chiếu và thị thực. Đây là văn bản đầu tiên quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về hộ chiếu, thị thực của Việt Nam, những tài liệu có tính pháp lý phục vụ cho việc xuất cảnh, nhập cảnh của công dân. Tiếp đó, ngày 22-2-1966, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 38/CP về việc cấp hộ chiếu công vụ và hộ chiếu phổ thông cho người Việt Nam ra nước ngoài về việc riêng. Tuy nhiên, do trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, điều kiện về kinh tế và phương tiện đi lại khó khăn nên việc xuất cảnh của công dân có nhiều hạn chế.
Thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa của Đảng, ngày 26-2-1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Quyết định số 48/HĐBT về việc cho phép công dân Việt Nam xuất cảnh có thời hạn để giải quyết việc riêng. Quyết định này đã mở rộng diện công dân xuất cảnh có thời hạn ra nước ngoài thăm thân nhân, du lịch, du học tự túc, lao động tự túc… Mặc dù thủ tục còn đòi hỏi nhiều loại giấy tờ, nhưng văn bản này đánh dấu sự đổi mới về chủ trương giải quyết cho công dân xuất cảnh có thời hạn về việc riêng. Để tạo điều kiện cho công dân có nguyện vọng ra nước ngoài học tập, lao động, làm ăn, buôn bán…, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 270/CP, ngày 23-7-1991 về việc giải quyết cho sinh viên Việt Nam ra nước ngoài du học tự túc và Nghị định số 370/CP, ngày 9-11-1991 về việc giải quyết cho công dân Việt Nam ra nước ngoài lao động tự túc. Đây là chủ trương đúng đắn, từng bước mở rộng quyền xuất cảnh, nhập cảnh của công dân, góp phần thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh".
Nhằm bảo đảm quyền xuất cảnh, nhập cảnh của công dân ngày càng thuận lợi, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong việc giải quyết cho công dân xuất cảnh, nhập cảnh. Nghị định số 24/CP, ngày 24-3-1995 của Chính phủ về thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh đã cụ thể hóa chủ trương này. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 957/1997/QĐ-TTg, ngày 11-11-1997 về cải tiến một số thủ tục xuất cảnh và giải quyết vấn đề người Việt Nam xuất cảnh nhưng không về nước đúng hạn. Quyết định số 957/1997/QĐ-TTg đánh dấu bước đột phá về cải cách hành chính trong giải quyết thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh của công dân, như: Xóa bỏ chế độ thị thực đối với công dân Việt Nam đã có hộ chiếu hợp lệ xuất cảnh, nhập cảnh; bãi bỏ việc xử phạt hành chính đối với những người ở lại nước ngoài quá hạn. Nghị định số 05/2000/NĐ-CP, ngày 3-3-2000 của Chính phủ về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam đã đổi mới một cách cơ bản chính sách, thủ tục hành chính, tạo thông thoáng và thuận lợi cho công dân Việt Nam xuất cảnh, nhập cảnh, phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo Nghị định này, mọi công dân, nếu có nhu cầu xuất cảnh đều được cấp hộ chiếu (trừ những trường hợp chưa được phép xuất cảnh theo quy định của pháp luật), không phân biệt mục đích xuất cảnh, nước đến; khi công dân làm thủ tục đề nghị cấp hộ chiếu không phải xin xác nhận của công an phường, xã nơi cư trú nếu xuất trình giấy chứng minh nhân dân và hộ khẩu thường trú hợp lệ.
Đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước ta tiếp tục đổi mới, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập cảnh. Nghị định số 136/2007/NĐ-CP, ngày 17-8-2007 của Chính phủ về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, quy định thủ tục cấp hộ chiếu đơn giản, tạo thuận lợi tối đa cho công dân, đồng thời tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan, các ngành liên quan trong việc bảo đảm quyền xuất cảnh, nhập cảnh của công dân. Theo Nghị định này, công dân có nhu cầu cấp hộ chiếu phổ thông chỉ cần xuất trình chứng minh nhân dân và nộp một tờ khai thay vì hai tờ khai như trước đây; công dân có nhu cầu cấp hộ chiếu có thể chủ động hoàn tất thủ tục và tự lựa chọn cách nộp hồ sơ, nhận hộ chiếu phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình như trực tiếp nộp ở công an tỉnh, hoặc gửi qua bưu điện; thời gian giải quyết và trả kết quả được rút ngắn từ 15 ngày xuống còn 8 ngày; hộ chiếu phổ thông có thời hạn không quá 10 năm và được sử dụng thay thế giấy chứng minh nhân dân. Nhờ những đổi mới, cải tiến thủ tục hành chính mạnh mẽ trong lĩnh vực xuất nhập cảnh, công dân xuất cảnh, nhập cảnh thuận lợi, dễ dàng hơn, mục đích xuất cảnh đa dạng hơn và số lượng người Việt Nam xuất cảnh không ngừng tăng nhanh. Nếu tính từ thời điểm năm 1988, năm đầu tiên thực hiện cho công dân xuất cảnh có thời hạn chỉ có 3.353 lượt người xuất cảnh, năm 2004 là 967.761 lượt người, thì đến năm 2011 con số này đã là 4.076.161 lượt người xuất cảnh, tăng 1.215 lần.
TS TRẦN QUANG TÁM
(Còn nữa)