Ngày 23-12, tại Hà Nội, Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam tổ chức Diễn đàn Chiến lược và xu hướng phát triển thị trường khí thiên nhiên (CNG, LNG, LPG) tại Việt Nam và khu vực ASEAN.
Tại Việt Nam, khí thiên nhiên được xác định là nguồn năng lượng chuyển tiếp quan trọng trong triển khai Quy hoạch điện VIII, góp phần giảm phụ thuộc vào than và hỗ trợ tích hợp năng lượng tái tạo. Đến năm 2030, tổng công suất điện khí của Việt Nam dự kiến đạt 9.000-10.000MW, với sản lượng khoảng 50-58 tỷ kWh.
Với vị trí chiến lược, Việt Nam có thể trở thành trung tâm tái xuất khí thiên nhiên; trung tâm điều độ khí thiên nhiên khu vực; hỗ trợ năng lượng cho chuỗi cung ứng FDI. Việt Nam cũng có cơ hội phát triển các phát hiện khí tại chỗ với các dự án như: Dự án khí Lô B, dự án khí Cá Voi Xanh, các mỏ khí có quy mô nhỏ và trung bình ở Bể Nam Côn Sơn và Bể Mã Lai - Thổ Chu…
 |
| Quang cảnh diễn đàn. Ảnh: ĐÌNH KHƯƠNG |
Phát biểu khai mạc diễn đàn, Tổng biên tập Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam Mai Duy Thiện cho biết, hiện nay, nhu cầu sử dụng khí thiên nhiên tại Việt Nam và các quốc gia ASEAN gia cũng tăng nhanh chóng, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghiệp, giao thông và phát điện. Khí thiên nhiên được đánh giá là các nguồn năng lượng có mức phát thải thấp hơn so với nhiên liệu hóa thạch truyền thống, góp phần cải thiện chất lượng môi trường và bảo đảm an ninh năng lượng.
Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường khí thiên nhiên tại Việt Nam vẫn đang đối mặt với không ít thách thức, từ cơ chế chính sách sách (giá điện, giá khí, cơ chế mua/bán, cơ chế bao tiêu)…
Chia sẻ tại diễn đàn, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cũng nhận định, trước đây Việt Nam chủ yếu tận dụng nguồn khí nội địa, giá tương đối ổn định, hợp đồng dài hạn, ít biến động. Song hiện nay, quy hoạch điện, chiến lược năng lượng đều xác định điện khí, đặc biệt điện khí LNG, sẽ trở thành một trong những trụ cột thay thế dần điện than, đồng thời hỗ trợ hệ thống tích hợp năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió) vốn biến động mạnh theo thời tiết.
Vì vậy, nếu chúng ta không xây dựng được một thị trường khí vận hành hiệu quả, minh bạch, phù hợp thông lệ quốc tế, chúng ta sẽ đối mặt với nguy cơ: Dự án LNG chậm tiến độ; giá điện khó cạnh tranh; rủi ro năng lượng và tài khóa gia tăng..
Các tham luận tại diễn đàn cũng chỉ ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy để thị trường khí phát triển nhanh, không tạo gánh nặng nợ công, phải coi tư nhân và FDI là lực kéo vốn chủ lực. Muốn vậy, Nhà nước cần chuẩn hóa các mẫu hợp đồng pháp lý theo thông lệ quốc tế, phân bổ rủi ro hợp lý giữa nhà nước - nhà đầu tư - người tiêu dùng; phát triển cơ chế PPP - Đối tác công tư đặc thù cho hạ tầng khí.
Trong đó, Nhà nước bảo đảm pháp lý, quy hoạch, một phần giải phóng mặt bằng; doanh nghiệp đầu tư xây dựng, vận hành, chịu rủi ro thị trường trong khung pháp lý rõ ràng; tận dụng nguồn vốn, kinh nghiệm, công nghệ từ các đối tác như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Singapore thông qua: Liên doanh; tín dụng ưu đãi gắn với mục tiêu giảm phát thải; các chương trình hợp tác chuyển dịch năng lượng công bằng.