Các đồng chí GS, TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, kiêm Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương; Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) Nguyễn Vũ Trường Sơn và PGS, TS Vũ Văn Hà, Phó tổng biên tập Tạp chí Cộng sản đồng chủ trì hội nghị.

Tham dự hội thảo có đại diện lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương; đại diện lãnh đạo các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước; các nhà nghiên cứu chính sách...

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: hanoimoi.com.vn

Hội thảo “Xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế” thảo luận làm rõ 3 nhóm vấn đề: Thứ nhất, thể chế và vai trò của thể chế đối với sự phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc xây dựng thể chế cho phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước. Thứ hai, đánh giá thực trạng xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam trong thời gian qua, làm rõ những thành công, hạn chế, nguyên nhân của các hạn chế, đặc biệt là sự đánh giá dưới góc nhìn từ một số tập đoàn kinh tế nhà nước trong thời gian qua. Thứ ba, những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện thể chế góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng.

Phát biểu tại hội thảo, các đại biểu đều khẳng định, sự ra đời và phát triển của các tập đoàn kinh tế nhà nước đã đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần đưa Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Tại Việt Nam hiện đã có tổng cộng 12 tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước ít nhiều đã bộc lộ một số vấn đề cần phải giải quyết. Biểu hiện chủ yếu là phát triển quá nóng, tập trung mở rộng quy mô, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực mà thiếu chú trọng vào lĩnh vực cốt lõi; phát triển vượt quá năng lực tài chính, quản trị... Kết quả, hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ (tài nguyên, đất đai, vốn, công nghệ...). Phạm vi hoạt động của đa số các tập đoàn kinh tế nhà nước chủ yếu là thị trường trong nước, hội nhập khu vực và quốc tế còn hạn chế. Sự liên kết giữa các thành viên trong tập đoàn chưa cao, chưa thể hiện được bản chất của tập đoàn kinh tế, chưa thể hiện rõ được vai trò dẫn dắt, tạo động lực phát triển cho các lĩnh vực, các ngành khác. Cùng với đó, trong hoạt động của mình các tập đoàn kinh tế đã để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát tài sản Nhà nước.

Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) Nguyễn Vũ Trường Sơn cho rằng, ảnh hưởng của các tập đoàn kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế là rất sâu, rộng. Khi các tập đoàn kinh tế hoạt động hiệu quả sẽ có tác động tích cực, sâu sắc đến không chỉ lĩnh vực kinh tế mà hơn thế nữa, còn tác động tới niềm tin của xã hội vào chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, vào chế độ, chính sách của Nhà nước. Thực tiễn cho thấy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói chung, các tập đoàn kinh tế nhà nước nói riêng, một trong những vấn đề then chốt cần giải quyết đó là hoàn thiện thể chế. Trong đó, một vấn đề cần đặc biệt quan tâm là thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng trong quản lý, điều hành của Nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế chủ lực của đất nước.

Theo PGS, TS Vũ Văn Hà, Phó tổng biên tập Tạp chí Cộng sản, DNNN vẫn đang tồn tại, phát triển và có vai trò nhất định ở hầu hết các quốc gia, từ các nước phát triển cho tới các nền kinh tế mới nổi và các nước có thu nhập thấp. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, mặc dù quá trình cổ phần hóa được đẩy mạnh, cùng với sự phát triển của khu vực tư nhân, DNNN vẫn là thành phần chính trong các ngành, lĩnh vực then chốt như tài chính, hạ tầng, chế tạo, năng lượng, khai khoáng. Các tập đoàn kinh tế nhà nước đảm nhận nhiệm vụ là trụ cột quan trọng của nền kinh tế, là lực lượng, công cụ quan trọng để mở rộng thị trường, nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giữ vai trò tiên phong đối với quá trình đổi mới khoa học và công nghệ quốc gia.

Thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng đối với các tập đoàn kinh tế

Theo PGS, TS Vũ Văn Hà, thực tiễn cho thấy để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước nói chung, nhất là của các tập đoàn kinh tế nhà nước thì một trong những vấn đề then chốt cần giải quyết đó là hoàn thiện thể chế phát triển các tập đoàn này. Trong đó một vấn đề cần đặc biệt quan tâm là việc thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng trong quản lý, điều hành của Nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế chủ lực của đất nước.

Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN đặt mục tiêu đến năm 2020 là: “Cơ cấu lại, đổi mới DNNN giai đoạn 2017-2020 trên cơ sở các tiêu chí phân loại DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc các ngành, lĩnh vực. Phấn đấu hoàn thành thoái vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ, tham gia góp vốn; tập trung xử lý dứt điểm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các dự án, công trình đầu tư của DNNN kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài” và đến năm 2030 là: “Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế”.

Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 131/2018/NĐ-CP ngày 29-9-2018, quy định quyền, trách nhiệm của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC) là đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn Nhà nước đầu tư tại công ty Cổ phần, công ty TNHH hai thành viên trở lên theo quy định của pháp luật. Trước mắt, Ủy ban này quản lý vốn và tài sản của 7 tập đoàn kinh tế và 12 tổng công ty nhà nước, gồm hơn 1 triệu tỷ đồng vốn điều lệ và hơn 2,3 triệu tỷ đồng tài sản, chiếm khoảng 2/3 tổng tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.

Cần có công cụ kiểm soát và đánh giá chính xác hiệu quả

Tại hội thảo nhiều đại biểu cho rằng, phải hoàn thiện cơ chế quản lý và kiểm soát đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước. Đây là giải pháp hết sức quan trọng, về thực chất giải pháp này nhằm giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và tập đoàn kinh tế trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối nhằm đảm bảo cho tập đoàn kinh tế một cơ chế vận hành phản ứng linh hoạt với thị trường, đảm bảo vừa đạt được hiệu quả kinh tế vừa đảm bảo thực hiện các mục tiêu xã hội. Giải pháp này cho phép giải quyết rõ ràng mối quan hệ giữa quyền tự quyết của DN với sự can thiệp - kiểm soát của nhà nước - với tư cách là người chủ sở hữu, cho phép phân định rõ chức năng quản lý hành chính và chức năng quản lý kinh doanh. 

Ông Doãn Công Khánh, cán bộ Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương (Bộ Công thương) cho rằng, cần một hệ thống báo hiệu được sử dụng để đánh giá các kết quả hoạt động của tập đoàn kinh tế, bao gồm: Hệ thống đánh giá kết quả thực hiện ứng với các mục tiêu đề ra; hệ thống khuyến khích gắn quyền lợi giữa nhà nước, người quản lý và công nhân thông qua hệ thống khen thưởng, phân phối thu nhập theo các kết quả thực hiện.

Các đại biểu tham gia hội thảo cho rằng, cần nhanh chóng hoàn thiện bộ máy triển khai mô hình Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp vừa được thành lập. Đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước cần bảo đảm, theo thông lệ của thị trường và tuân thủ theo các quy định của pháp luật trong kinh doanh (nhận vốn của Nhà nước để kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, gia tăng giá trị vốn của Nhà nước và chịu trách nhiệm đối với phần nhiệm vụ được giao, đồng thời tăng tính chủ động trong các quyết định đầu tư).

QUỲNH DƯƠNG