Theo Phó chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) Trương Văn Cẩm, mặc dù dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp nhưng tín hiệu tích cực từ các thị trường lớn với cầu tiêu dùng tăng trở lại là điều kiện lý tưởng để các doanh nghiệp (DN) đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Cùng với đó, để tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, hướng tới phát triển bền vững, ngành dệt may đang đẩy mạnh quá trình “xanh hóa” quy trình sản xuất.

Ông Trương Văn Cẩm. 

Phóng viên (PV): Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về triển vọng của ngành dệt may trong năm 2022?

Ông Trương Văn Cẩm: Năm 2021 là năm chồng chất khó khăn nhưng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đã duy trì đà tăng trưởng tốt, đạt 39 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2020 và tăng 0,3% so với năm 2019. Đây có thể xem là một nỗ lực lớn của ngành dệt may Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Đáng chú ý, tình trạng các khách hàng chuyển đơn hàng đi và không quay trở lại chiếm tỷ lệ không nhiều. Dệt may Việt Nam có thế mạnh, nhất là về tay nghề công nhân, ý thức làm việc tốt nhằm bảo đảm đơn hàng. Đây là điều không phải nơi nào cũng đáp ứng được. Tại thời điểm hiện tại, nhiều DN dệt may đã có đơn hàng đến hết quý II-2022.

Năm 2022, Vitas dự báo tình hình dịch bệnh trên thế giới và Việt Nam vẫn diễn biến rất phức tạp, khó lường. Song tín hiệu tích cực là các thị trường lớn như Mỹ, EU... đã mở cửa trở lại, đặc biệt là Việt Nam đã có chính sách thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế theo Nghị quyết số 128/NQ-CP. Từ thực tế, Vitas xây dựng mục tiêu cho năm 2022 theo 3 kịch bản. Với kịch bản tích cực nhất, tình hình dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 42-43,5 tỷ USD mà ngành đề ra sẽ sớm thành hiện thực.

Hoạt động sản xuất tại Công ty TNHH một thành viên 76. Ảnh: THU TRANG 

PV: Đâu sẽ là những thách thức của ngành trong năm 2022, thưa ông?

Ông Trương Văn Cẩm: Sống còn với DN là phải có đơn hàng, thứ hai là phải có lao động, gắn với vấn đề có kiểm soát được dịch Covid-19 hay không. Các DN muốn lao động gắn bó phải chăm lo đời sống, bảo đảm việc làm, các chế độ phúc lợi.

Cùng với đó, cái khó của ngành dệt may là nguyên phụ liệu đầu vào, đặc biệt là vải, dệt nhuộm. Tại một số địa phương vẫn cảm thấy ngành dệt nhuộm gây ô nhiễm nên không mặn mà với các dự án phát triển lĩnh vực này. Song hiện nay dệt nhuộm đã có công nghệ mới. Hơn nữa còn do khâu giám sát và xử lý. Công nghệ mới dùng ít nước và nước thải được xử lý, ít gây ô nhiễm môi trường... nên cũng cần thay đổi cách nhìn nhận. Ngành dệt may đang phối hợp với Bộ Công Thương xây dựng các khu công nghiệp dệt may lớn có hệ thống xử lý nước thải, bảo vệ môi trường... để đáp ứng phần nào về nguồn nguyên liệu cho ngành.

Thúc đẩy “xanh hóa” ngành

PV: Thị trường thế giới đang có dấu hiệu hồi phục, ông đánh giá các hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là các FTA thế hệ mới sẽ có tác động thế nào tới tăng trưởng xuất khẩu của ngành?

Ông Trương Văn Cẩm: Các FTA, nhất là các FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực... là cú hích lớn cho ngành dệt may và cho nền kinh tế. Nhưng các FTA, nhất là FTA thế hệ mới thường đưa ra những yêu cầu rất cao, rất khắt khe về quy tắc xuất xứ, về môi trường, lao động... Các FTA đều có lộ trình giảm thuế, nếu đáp ứng được quy tắc này thì hiệu quả xuất khẩu tăng lên rất cao.

PV: Ông có nhắc tới các FTA yêu cầu rất khắt khe về môi trường. Vậy đâu là hướng đi để phát triển bền vững ngành dệt may, thưa ông?

Ông Trương Văn Cẩm: Các nhãn hàng đánh giá sự phát triển bền vững trên cơ sở mức độ tuân thủ của DN về môi trường, xã hội, trách nhiệm đối với người lao động, người tiêu dùng toàn cầu khi sản phẩm của DN được đưa ra tiêu thụ trên thị trường thế giới cũng như trong nước. Trong các FTA thế hệ mới đều có cam kết về bảo vệ môi trường và phát thải thấp. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội để DN hướng đến đầu tư công nghệ sản xuất hiện đại, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm khi XK, tăng uy tín và thương hiệu của DN, của ngành dệt may đối với người tiêu dùng.

 “Xanh hóa” ngành dệt may là xu thế toàn cầu mà DN bắt buộc phải triển khai để đạt mục tiêu phát triển bền vững và gia tăng xuất khẩu vào các thị trường lớn đã ký FTA. Dệt may Việt Nam đã nhìn nhận vấn đề "xanh hóa” từ rất sớm. Ngành dệt may đã nỗ lực “xanh hóa” những năm qua và tranh thủ sự ủng hộ từ nhiều tổ chức quốc tế hỗ trợ ngành triển khai chiến lược này, với các hoạt động cụ thể như tập huấn, đào tạo, hỗ trợ các giải pháp xử lý môi trường...

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, ngành dệt may phát triển rất nhanh nhưng vẫn yếu khâu nguyên liệu đầu vào. Vì vậy, bên cạnh sự nỗ lực của DN, ngành dệt may hy vọng Nhà nước có cơ chế hỗ trợ đặc thù, chính sách cụ thể để khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ, bao gồm quy hoạch tổng thể, phân bổ thu hút đầu tư, các quỹ khuyến khích xuất khẩu, hỗ trợ tài chính... để giúp DN nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

VŨ DUNG (thực hiện)