QĐND - Cách đây đúng 10 năm, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 115/2005/NĐ-CP về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ (KH&CN) công lập nhằm mục đích đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức này. Tuy nhiên, một thập kỷ qua, tinh thần đổi mới và giao quyền tự chủ cho các tổ chức KH&CN công lập vẫn chưa được thực hiện một cách quyết liệt; nhiều tổ chức KH&CN vẫn chưa phê duyệt đề án này do còn nhiều vướng mắc khó tháo gỡ...

Nhiều tổ chức KH&CN chưa phê duyệt đề án

Qua tổng hợp từ các bộ, ngành, địa phương, đến nay trong tổng số 642 tổ chức KH&CN công lập có 488 tổ chức đã được phê duyệt Đề án thực hiện cơ chế tự chủ (đạt 76%). Như vậy, sau 10 năm triển khai, hiện vẫn còn tới 154 tổ chức chưa thực hiện phê duyệt đề án này mặc dù Nghị định 115 (sửa đổi) quy định hạn cuối cùng các tổ chức phải phê duyệt xong đề án này là ngày 31-12-2013.

Cán bộ Trung tâm Nghiên cứu sản xuất vắc-xin và sinh phẩm y tế (Bộ Y tế) nghiên cứu chế tạo vắc-xin. Ảnh: Thu Hương 

Một trong những nguyên nhân khiến các tổ chức KH&CN chậm chuyển đổi cơ chế là do tư duy trì trệ của người lãnh đạo, cán bộ chủ chốt không muốn tách ra khỏi Nhà nước để làm khoa học. Ý kiến của nhiều nhà khoa học cũng thẳng thắn cho rằng, đa số các nhà khoa học đều muốn gắn "mác" của Nhà nước để được ưu tiên trong xét chọn thực hiện đề tài khoa học. Các tổ chức khoa học đã quen với việc dùng tiền ngân sách để làm khoa học nên không ai muốn thực sự tự chủ…

Theo Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu, nguyên Viện trưởng Viện hàn lâm KH&CN Việt Nam, tổ chức KH&CN muốn tự chủ thì từ người lãnh đạo đến cán bộ chủ chốt phải xứng đáng được tạo quyền tự chủ. Tinh thần tự chủ của nhiều nhà khoa học, nhiều đơn vị khoa học chưa đúng mức nên kết quả khoa học đưa vào cuộc sống còn ít. Nước ta có hàng chục nghìn người làm khoa học. Thế nhưng những nhà khoa học tâm huyết, trung thực, tận tụy lại rất ít.

Việc chậm chuyển đổi cơ chế tự chủ của các tổ chức KH&CN công lập một phần do các bộ, ngành và địa phương chưa có sự giải thích cặn kẽ để các tổ chức KH&CN hiểu được lợi ích của việc tự chủ. Không ít người cho rằng, thực hiện tự chủ là để Nhà nước giảm chi cho khoa học, giảm số người làm khoa học. Tuy nhiên, thực tế ở những tổ chức KH&CN đã thực hiện tự chủ thành công thì hoàn toàn ngược lại với quan điểm trên. Các tổ chức KH&CN được giao quyền tự chủ hơn trong việc chi lương, chi hoạt động bộ máy và sử dụng các nguồn thu khác từ hợp đồng KH&CN. Nhiều tổ chức có doanh thu lớn từ các hợp đồng KH&CN như: Viện Dầu khí Việt Nam có tổng doanh thu từ các hợp đồng KH&CN trong năm 2014 là hơn 601 tỷ đồng, doanh thu của Viện Máy và Dịch vụ công nghiệp là hơn 712 tỷ đồng… Do có nguồn thu cao nên thu nhập của cán bộ, nhà khoa học ở nhiều tổ chức KH&CN được cải thiện với mức lương bình quân từ 10 đến 22 triệu đồng/tháng…

Hướng nào để thực hiện cơ chế tự chủ?

Những tổ chức KH&CN công lập chậm chuyển đổi do các nguyên nhân nội tại và có những nguyên nhân thuộc về cơ chế, chính sách. Phó giáo sư, Tiến sĩ Lê Ngọc Tòng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) nhận định: Để các tổ chức KH&CN tự chủ thành công, “sống” được trong cơ chế thị trường thì trước tiên phải phân nhóm các tổ chức KH&CN ra thành nhóm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai. Nhà nước có chế độ khác nhau cho các nhóm nghiên cứu bởi nghiên cứu lý thuyết cơ bản sẽ phục vụ cho sự phát triển chung của xã hội và Nhà nước cần đặt hàng cho các nghiên cứu. Đối với nghiên cứu ứng dụng, Nhà nước giảm bớt bao cấp nhưng các nhóm nghiên cứu này cần có sản phẩm nghiên cứu phục vụ cho sự phát triển của các bộ, ngành. Riêng nhóm nghiên cứu triển khai thì hướng tới xóa bỏ bao cấp hoàn toàn, khuyến khích các tổ chức này vươn ra khai thác từ thị trường, tạo ra các sản phẩm KH&CN phục vụ trực tiếp cho thị trường, cho nhân dân để sử dụng sản phẩm đó vào sản xuất. Mặt khác, từng bước tạo ra thị trường công nghệ để thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu.

Có thể nói, Nghị định 115 đã mở ra cơ chế mới cho các nhà khoa học, các tổ chức khoa học phát huy được năng lực nội sinh của mình để sáng tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ cho nhu cầu trực tiếp của xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn ở Việt Nam còn nhiều khó khăn khi triển khai nghị định này, nếu không có những cơ chế đặc thù thì việc triển khai nghị định này sẽ khó đi vào cuộc sống. Giáo sư, Tiến sĩ Trần Công Phong, Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, lấy ví dụ trong lĩnh vực giáo dục. Cán bộ khoa học muốn thực hiện nghiên cứu giáo dục được thì phải có thực tiễn giảng dạy tại các nhà trường, học viện ít nhất từ 10 đến 20 năm. Tuy nhiên, khi những giảng viên có kinh nghiệm này chuyển sang làm khoa học thì các chế độ chính sách ở trường không còn nữa. Một giáo viên khi đang công tác tại trường có thâm niên nhà giáo, có phụ cấp ưu đãi. Người có 30 năm công tác và đặc thù nhà trường thì khi về viện, thu nhập sẽ giảm 50-60%. Do vậy, cần phải có những cơ chế chính sách ưu đãi, nếu không được giải quyết hài hòa thì khó thu hút đội ngũ nhà khoa học.

MINH MẠNH