Kiểm tra chuyên ngành vẫn gây tốn kém cho DN
Những vướng mắc, bất cập về quy định, thủ tục trong quản lý, kiểm tra chuyên ngành vẫn đang là rào cản, gây tốn kém thời gian và chi phí của DN. Thống kê của Tổng cục Hải quan, tính đến ngày 31-12-2019 vẫn còn khoảng 70.000 mặt hàng còn thuộc diện điều chỉnh bởi các chính sách, quy định liên quan đến quản lý chuyên ngành và kiểm tra chuyên ngành. Đáng chú ý, theo ông Nguyễn Văn Cẩn, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan, hiện nay, mỗi loại hình kiểm tra lại có trình tự, thủ tục khác nhau được quy định chi tiết tại các luật chuyên ngành và các nghị định hướng dẫn. Tuy nhiên, thực tế triển khai lại không thống nhất giữa các bộ, ngành, không thống nhất giữa luật và nghị định, dẫn đến việc DN phải thực hiện nhiều bước, làm thủ tục tại nhiều cơ quan, tổ chức...
 |
Hải quan Tân Thanh (Lạng Sơn) kiểm tra chất lượng hàng hóa. Ảnh: HỒNG NỤ |
Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại những quy định chưa phù hợp, như: Áp dụng kiểm tra đối với từng lô hàng của từng chủ hàng; một số hàng hóa không có khả năng gây mất an toàn tại cửa khẩu và có thời gian kiểm tra lâu nhưng vẫn thuộc diện kiểm tra trước thông quan như thang máy, cần cẩu. “Trên thực tế, tỷ lệ kiểm tra chuyên ngành nhiều nhưng phát hiện vi phạm rất thấp. Trong vòng 5 năm, tỷ lệ phát hiện lô hàng không đáp ứng chất lượng chưa đến 0,03% so với tỷ lệ mẫu đưa ra”, ông Nguyễn Văn Cẩn cho biết.
Để tạo bước chuyển biến đột phá trong công tác kiểm tra chuyên ngành, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan xây dựng Đề án “Cải cách mô hình kiểm tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu". Theo mô hình đề án, nhiều thủ tục kiểm tra theo mô hình mới được đơn giản hóa nhờ nguồn thông tin, cơ sở dữ liệu của người nhập khẩu được tập trung vào một đầu mối là cơ quan hải quan. Theo đó, khi hàng hóa đủ điều kiện được áp dụng chế độ miễn kiểm tra chất lượng hoặc kiểm tra giảm thì hệ thống điện tử hải quan tự động cập nhật, người nhập khẩu không phải làm thủ tục xin miễn giảm như hiện hành; giảm nhiều giấy tờ trùng lặp giữa hồ sơ hải quan và hồ sơ kiểm tra chất lượng...
“Với việc thống nhất đầu mối kiểm tra và cải cách theo mô hình mới, DN chỉ phải đăng ký kiểm tra chất lượng, an toàn thực phẩm với cơ quan hải quan, lựa chọn tổ chức giám định và thông báo cho cơ quan hải quan, thông quan hàng hóa nếu hàng hóa đạt chất lượng, an toàn thực phẩm. DN không phải đi lại giữa cơ quan kiểm tra nhà nước và cơ quan hải quan, từ đó giảm chi phí, thời gian cho DN”, ông Nguyễn Văn Cẩn nhấn mạnh.
Ứng dụng tối đa công nghệ thông tin
Giới thiệu về nội dung cải cách trọng tâm của đề án, ông Âu Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Giám sát quản lý về hải quan (Tổng cục Hải quan) cho hay, đề án tập trung áp dụng đồng bộ 3 phương thức kiểm tra cho cả lĩnh vực chất lượng, an toàn thực phẩm nhằm cắt giảm số lô hàng nhập khẩu phải kiểm tra gồm: Kiểm tra chặt; kiểm tra thông thường; kiểm tra giảm. Đồng thời, áp dụng kiểm tra theo mặt hàng để cắt giảm số lượng các lô hàng phải kiểm tra; mở rộng đối tượng được miễn kiểm tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm, với dự kiến bổ sung 18 nhóm đối tượng để giảm chi phí quản lý nhà nước và chi phí của DN. Đặc biệt, để cắt giảm thời gian, hỗ trợ DN và các cơ quan hữu quan, lực lượng hải quan sẽ ứng dụng tối đa hệ thống công nghệ thông tin trong mô hình kiểm tra chất lượng, an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu. Theo tính toán, mô hình kiểm tra chất lượng mới có thể giúp cắt giảm khoảng 54,4% lượng tờ khai hằng năm và tiết kiệm được cho các DN khoảng 881 tỷ đồng.
Chúng tôi cho rằng khi đề án được thông qua, để triển khai một cách hiệu quả thì hệ thống công nghệ thông tin cần được nâng cấp, bổ sung; cần tăng cường phối hợp, kết nối, chia sẻ thông tin giữa cơ quan hải quan và các cơ quan kiểm tra thuộc bộ quản lý ngành, lĩnh vực để bảo đảm hiệu quả quản lý trong khâu kiểm tra trước thông quan và khâu thanh tra, kiểm tra chuyên ngành khi lưu thông trên thị trường nội địa. Xây dựng mô hình quản lý rủi ro “tích hợp” giữa các bộ, ngành để kiểm soát toàn diện chất lượng hàng hóa nhập khẩu từ khâu trước, trong và sau khi nhập khẩu. Đồng thời phải lấy DN làm trung tâm, giảm phiền hà, phức tạp, chuyển tiền kiểm sang hậu kiểm, tăng thời gian thông quan, giảm phiền hà, cắt giảm chi phí. Đề án sẽ là bước cải cách, tạo sự thông thoáng, minh bạch, cắt giảm chi phí, thời gian và tạo thuận lợi cho DN. Đề án nếu thực hiện tốt sẽ tạo ra cải cách khá triệt để, tạo dư địa rất lớn cho tăng trưởng.
MINH ĐỨC