Phóng viên (PV): Ông có thể cho biết vì sao chúng ta phải cần có ngay một nghị quyết riêng về xử lý nợ xấu?
Ông Nguyễn Sỹ Cương: Không phải đến bây giờ chúng ta mới đề cập đến cần phải có giải pháp đặc thù để xử lý nợ xấu, mà nó đã được nói nhiều trong thời gian qua. Và đến bây giờ chúng ta không thể trì hoãn được việc này nữa, phải nhanh chóng triển khai đưa vào cuộc sống.
Trong nền kinh tế thị trường, lĩnh vực kinh doanh nào cũng có rủi ro, nhưng có lẽ kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi do nhất bởi tính linh hoạt, khó kiểm soát việc sử dụng đồng tiền của người vay. Nhiều học giả, nhà quản lý ngân hàng lớn trên thế giới cũng đã khẳng định: Rủi ro, nợ xấu là những người đồng hành bất đắc dĩ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Điều đó có nghĩa là chúng ta không thể xóa bỏ hoàn toàn rủi ro, xóa bỏ nợ xấu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nhưng chúng ta có thể phòng ngừa, kiểm soát được rủi ro, nợ xấu ở mức độ có thể chấp nhận.
Nợ xấu đang là vấn đề nóng, được Quốc hội, Chính phủ và cử tri quan tâm và ví như “Cục máu đông”. Nợ xấu làm cho nền kinh tế kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh thấp. Thời gian qua đã có nhiều văn bản, nhiều giải pháp để xử lý nợ xấu, tuy nhiên việc triển khai, thực thi chưa hiệu quả, cơ chế, chính sách, pháp luật về xử lý nợ xấu chưa hoàn thiện, thiếu thống nhất, chưa bảo vệ quyền chủ nợ hợp pháp của các tổ chức tín dụng. Pháp luật quy định xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ còn nhiều bất cập, làm hạn chế kết quả xử lý nợ xấu, dẫn đến có nhiều vướng mắc, thời gian xử lý kéo dài… Việc rất đơn giản là người vay đã đồng ý thế chấp tài sản, khi không có khả năng trả nợ thì đương nhiên tổ chức tín dụng có toàn quyền xử lý tài sản thế chấp. Nhưng thực tế tổ chức tín dụng lại phải thỏa thuận, nếu chưa thống nhất phải ra tòa án phân giải…
Như vậy, ở đây rõ ràng khó khăn không chỉ khoanh vùng tại hệ thống ngân hàng mà nó còn lan tỏa nền kinh tế. Nếu để lâu dài tác động tiêu cực rất lớn. Kinh nghiệm các nước đều cho thấy, nợ xấu càng để lâu, thì chi phí xử lý càng lớn. Cũng rút ra từ những bài học ở các nước gặp khủng hoảng gắn với nợ xấu như cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, Nhật Bản… muốn xử lý nợ xấu hiệu quả, người ta cũng cần phải có cam kết chính trị, nguồn lực đủ mạnh, cơ sở pháp lý chặt chẽ. Và một điều quan trọng, bên cạnh quyết liệt mạnh mẽ thì kế hoạch hành động này cần có giải trình minh bạch, tạo được đồng thuận xã hội tốt hơn.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Sỹ Cương.
PV: Dự thảo Nghị quyết xử lý nợ xấu đã bảo đảm tính giải trình, thuyết phục chưa, thưa ông?
Ông Nguyễn Sỹ Cương: Quá trình tổng kết cho thấy một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đó là do cơ chế, chính sách, pháp luật về xử lý nợ xấu chưa hoàn thiện và còn nhiều bất cập làm giảm hiệu quả việc xử lý nợ xấu. Do vậy, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc liên quan đến nhiều luật hiện hành và thúc đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu trong giai đoạn 2016-2020, cần thiết phải có một văn bản do Quốc hội ban hành mới bảo đảm tính pháp lý và khả thi trong tổ chức thực hiện.
Tôi đã thấy sự rõ ràng, minh bạch về quyền lực, quyền hạn trong dự thảo nghị quyết này. Như đối với quy định mua bán nợ theo giá thị trường, có thể cho phép người bán thấp hơn hoặc cao hơn giá trị khoản nợ đó nhưng vẫn đủ minh bạch, cũng như rõ ràng về trách nhiệm xử lý người gây ra nợ xấu (nếu có) chứ không có sự đánh đồng công, tội.
Về quyền xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ), khung khổ pháp lý hiện nay trong chừng mực nhất định đã tác động không nhỏ đến tốc độ xử lý. Quá trình này diễn ra rất chậm và gây cho các ngân hàng nhiều khó khăn xử lý nợ xấu. Mà khó khăn này do vấn đề đề xác định quyền sở hữu gắn với quyền tài sản, quyền nắm giữ tài sản, quyền của những người liên quan trong hợp đồng tín dụng. Tôi cho rằng, chúng ta phải rất rõ ràng quyền sở hữu, quyền tài sản của các bên liên quan trong những hợp đồng giao dịch, cụ thể ở đây là hợp đồng tín dụng. Tuy những điều khoản mới tại dự thảo liên quan đến quyền xử lý TSBĐ đã tăng thêm một số quyền xử lý TSBĐ cho chủ nợ, nhưng đồng thời kèm theo yêu cầu chặt chẽ để bảo đảm hoạt động xử lý TSBĐ của ngân hàng thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, tôn trọng cam kết của các bên, và cũng không kém phần “nhân văn” hỗ trợ tích cực các con nợ của mình, bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên.
Xử lý nợ xấu là một cấu phần cực kỳ quan trọng trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Thị trường mong đợi việc có đủ khung khổ pháp lý để thực thi đồng thời cả hai quá trình đó. Vì vậy, Quốc hội ban hành nghị quyết là cấp bách, là cần thiết, tạo hành lang pháp lý cho xử lý nợ xấu kịp thời, đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
PV: Có ý kiến cho rằng, trao quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho TCTD là vi phạm quyền công dân quy định trong Hiến pháp, quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Ông Nguyễn Sỹ Cương: Thứ nhất, các nội dung của nghị quyết đều bảo đảm hợp hiến, không ảnh hưởng đến quyền của công dân. Thứ hai, theo quy định tại Khoản 2, Điều 15 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quy định các chính sách thí điểm mà pháp luật hiện hành chưa có quy định hoặc khác với quy định hiện hành. Mục đích, quan điểm xây dựng nghị quyết này là không sửa đổi các luật khác mà được áp dụng như một văn bản chuyên ngành để xử lý nợ xấu. Các đối tượng khác không thuộc phạm vi điều chỉnh của nghị quyết thực hiện theo quy định có liên quan của các luật hiện hành.
Khoản 3, Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: Trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau. Vì nghị quyết và luật đều là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành nên Khoản 2, Điều 17 dự thảo nghị quyết quy định cụ thể việc áp dụng nghị quyết theo nguyên tắc này là hoàn toàn hợp pháp, có cơ sở pháp lý và bảo đảm tính khả thi để thực hiện.
Về tính hợp hiến, hợp pháp của quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm: Theo Điều 14, 15 Hiến pháp 2013; Điều 2, 3 Bộ luật Dân sự 2015 thì ở Việt Nam, các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.
Trường hợp tổ chức, cá nhân tự nguyện đem tài sản của mình thế chấp, cầm cố để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ (giao dịch dân sự) sẽ làm phát sinh nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý khi vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Nói cách khác, quyền thu giữ tài sản bảo đảm đã được bên bảo đảm đồng ý trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, tự do ý chí. Theo dự thảo nghị quyết, quyền thu giữ tài sản bảo đảm chỉ được thực hiện khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết.
Về nhà ở, Điều 22 Hiến pháp quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Việc khám xét chỗ ở do luật định”. Việc TCTD thu giữ tài sản bảo đảm là nhà ở của người bảo đảm hoặc người giữ tài sản bảo đảm (chủ nhà) về nguyên tắc đã được người bảo đảm hoặc người giữ tài sản bảo đảm (chủ nhà) đồng ý theo thỏa thuận thu giữ tại hợp đồng bảo đảm đã ký.
Do đó, quy định về quyền thu giữ tài sản tại dự thảo nghị quyết hoàn toàn phù hợp với Hiến pháp 2013 và Bộ luật Dân sự 2015, không hạn chế quyền công dân, quyền con người, bảo đảm công bằng quyền lợi và nghĩa vụ của các bên, cũng như không xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở theo quy định tại Hiến pháp. Như đã trình bày ở phần trên, việc cho phép TCTD được quyền thu giữ tài sản bảo đảm là biện pháp quan trọng để bảo đảm quyền lợi người gửi tiền và phù hợp với nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
NGỌC QUYẾT (thực hiện)