QĐND - Gần đây, nợ xấu đã thành đề tài nóng trên diễn đàn Quốc hội và là một trong những vấn đề đặc biệt quan tâm của người dân. Nhiều bạn đọc của Báo Quân đội nhân dân đã gửi thư, gọi điện về Tòa soạn đề nghị giải thích "nợ xấu" là gì? Thực trạng nợ xấu ở Việt Nam và giải pháp giảm nợ xấu? Chúng tôi đã tới gặp một số chuyên gia và lãnh đạo các cơ quan có liên quan với hy vọng, có thể đáp ứng được yêu cầu của bạn đọc.
"Nợ xấu" là gì?
Theo khái niệm của Ngân hàng Thế giới (World Bank) thì "nợ xấu" là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản.
Tại Việt Nam, theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22-4- 2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì “nợ xấu” được định nghĩa như sau: “Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng”.
Cũng theo Quyết định này thì nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại”. Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế, việc phân loại nợ xấu ở Việt Nam về cơ bản cũng giống như phân loại của nhiều nước trên thế giới.
 |
Ngân hàng TMCP Quân đội là một trong các tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu ở mức rất thấp.
|
Theo sự phân loại nói trên thì không phải gần đây chúng ta mới có nợ xấu mà theo tài liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì nợ xấu trong nền kinh tế quốc dân đã có từ lâu. Ngay thời kỳ bao cấp, tình hình dây dưa công nợ cũng đã rất lớn. Thậm chí, đã có lúc Chính phủ phải thành lập Ban thanh toán công nợ dây dưa. Nợ xấu lúc ấy chủ yếu là do cơ chế chứ rất ít có chuyện thất thoát, tham nhũng, vì thế việc tổ chức thanh toán những món nợ này dễ dàng hơn bây giờ, thường chỉ dùng phương pháp bù trừ cho nhau.
Theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, nợ xấu bây giờ xuất phát từ rất nhiều lý do. Trước hết, xuất phát từ người đi vay, có thể do các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, đầu tư vào sản xuất dài và ngắn hạn, nhưng người ta không lường trước hết được những rủi ro sẽ xảy ra nên không thu hồi được vốn sinh ra công nợ dây dưa. Cũng có thể do dự án tốt nhưng những người điều hành, thực hiện dự án kém nên nảy sinh những bất cập, thất thoát. Cũng không thể loại trừ người đi vay để làm “dự án ma”, chiếm dụng vốn của các tổ chức tín dụng.
Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu còn ở những người cho vay. Do một số tổ chức tín dụng, một số cán bộ tín dụng không chấp hành đúng nguyên tắc, cơ chế cho vay, thẩm định dự án không đúng, không sát. Trường hợp cho Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) vay là một ví dụ điển hình.
Cũng có những trường hợp cán bộ tín dụng dù biết dự án không hiệu quả nhưng vì những khoản “hoa hồng” đã cố tình không chấp hành quy trình cho vay.
Thực trạng nợ xấu tại Việt Nam ra sao?
Tại buổi họp báo thường kỳ tháng 10-2014 của Ngân hàng Nhà nước vừa được tổ chức tại Hà Nội, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam đã giảm dần qua 4 tháng qua sau khi Thông tư 09-2014/TT-NHNN (thông tư bổ sung một số điều của thông tư 02-2013/TT-NHNN), quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với những quy định chặt chẽ và có những tiêu chuẩn cao hơn, chính thức được áp dụng. Cụ thể nợ xấu tại thời điểm cuối tháng 9-2014 là 3,88%. Con số này tại thời điểm cuối tháng 6 là 4,17%; cuối tháng 7 là 4,11% và cuối tháng 8 là 3,9%.
Cũng tại cuộc họp báo này, ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch HĐQT Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) cho biết: Tính đến nay, VAMC đã mua được 93.000 tỷ đồng nợ xấu. Cả năm 2014, VAMC xây dựng mục tiêu bán được 2.500 tỷ đồng nhưng giờ đã bán được 3.500 tỷ đồng (bao gồm: Tổng bán nợ, thu hồi nợ, phát mãi tài sản). Bán đấu giá trực tiếp 290 tỷ đồng; bán các khoản nợ 1.800 tỷ đồng; thu hồi nợ 900 tỷ đồng.
Báo cáo tại phiên họp thường kỳ tháng 10-2014 của Chính phủ, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết: Đến tháng 10 năm 2014, đã xử lý được 54,3% tổng số nợ xấu được xác định tại thời điểm tháng 9 năm 2012, chủ yếu bằng các giải pháp đôn đốc thu hồi nợ, sử dụng dự phòng rủi ro, bán, xử lý nợ và tài sản bảo đảm, trong đó có bán nợ xấu cho VAMC.
Xử lý nợ xấu như thế nào?
Theo thông lệ của các nước trên thế giới, có 3 phương pháp cơ bản và các ngân hàng đang thực hiện để xử lý nợ xấu. 3 phương pháp này cũng đang được áp dụng tại Việt Nam.
Thứ nhất, phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi vốn. Đây là phương án khả dĩ nhất, nhanh nhất và truyền thống nhất trong các phương án. Việc phát mại tài sản thường đem về cho ngân hàng sự đảm bảo thu hồi vốn vì giá trị tài sản đảm bảo thường được định giá thấp hơn giá trị thực. Tuy nhiên, cái khó hiện nay của các ngân hàng ở Việt Nam là rất nhiều tài sản đảm bảo là bất động sản, nên trong bối cảnh thị trường bất động sản đóng băng hiện nay thì việc xử lý nợ sẽ khó khăn hơn. Hiện tại, nhiều ngân hàng ở Việt Nam đã thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) trực thuộc. Nhiệm vụ xử lý các tài sản đảm bảo của các ngân hàng này thường giao cho AMC. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) cho thấy, Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản MB hoạt động khá hiệu quả và MB hiện đang là một trong những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Thứ hai, tái cơ cấu nợ và hỗ trợ khách hàng để có thể trả nợ. Đây là biện pháp xử lý nợ xấu đang được áp dụng ngày càng nhiều hơn. Các ngân hàng thay vì đẩy người dân ra khỏi nhà, đẩy doanh nghiệp ra khỏi trụ sở thì ngồi lại cùng bàn bạc, tái cấu trúc và bàn phương án trả nợ như miễn giảm lãi, miễn giảm các khoản phải chi trả thay vì tịch thu nhà đất, đẩy khách hàng của mình ra đường. Ngoài ra, việc biến các khoản nợ thành một phần góp vốn của chủ nợ ở các doanh nghiệp cũng đã được áp dụng khá nhiều.
Thứ ba, với những khoản nợ không tài sản đảm bảo, không có khả năng tái cơ cấu để trả nợ được và gần như không thể áp dụng các biện pháp thu hồi nợ nào cả thì các ngân hàng phải bỏ tiền túi của mình ra từ lợi nhuận để bù đắp.
Sẽ giảm tỷ lệ nợ xấu về mức 3% vào cuối năm 2015
Tại Phiên họp thường kỳ tháng 10 năm 2014, Chính phủ đã thảo luận, thống nhất chỉ đạo tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp đẩy mạnh xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu các tổ chức tín dụng theo đề án được duyệt. Phấn đấu đến cuối năm 2015 cơ bản xử lý được số nợ xấu hiện có, kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng, tạo nền tảng phát triển an toàn, bền vững hệ thống các tổ chức tín dụng đến năm 2020.
Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu gắn với cơ cấu lại các tổ chức tín dụng theo hướng: Tập trung hoàn thiện khung khổ pháp lý, tạo thuận lợi cho việc xử lý nợ xấu, nhất là quy định về mua, bán, xử lý nợ, tài sản bảo đảm, trách nhiệm của người đi vay và quyền hạn của chủ nợ. Hoàn thiện chức năng, tăng cường tiềm lực tài chính, nâng cao năng lực, phát huy vai trò của VAMC, trong đó có việc mua bán nợ theo cơ chế thị trường. Phát triển mạnh thị trường mua bán nợ; khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia mua bán nợ xấu. Yêu cầu các tổ chức tín dụng công khai, minh bạch về nợ xấu và kết quả xử lý, thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế nợ xấu gia tăng. Tăng cường thanh tra, giám sát về nợ xấu, chất lượng tín dụng và việc thực hiện quy định pháp luật về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro. Tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong xử lý các vấn đề liên quan và hỗ trợ tổ chức tín dụng, VAMC trong xử lý nợ xấu, nhất là hoàn thiện hồ sơ pháp lý, thu hồi nợ và xử lý tài sản bảo đảm. Phấn đấu đến cuối năm 2015 đưa tỷ lệ nợ xấu xuống còn khoảng 3%.
Bài và ảnh: ĐỖ PHÚ THỌ