Theo đánh giá của Bộ Tài chính, hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực, song vẫn chưa tương xứng với nguồn lực mà Nhà nước giao quản lý. Một trong những tồn tại lớn nhất là việc sử dụng vốn và tài sản chưa thực sự hiệu quả; nhiều dự án đầu tư có quy mô vốn lớn nhưng không đạt được mục tiêu đề ra, thậm chí thua lỗ kéo dài.
Thực tế cho thấy, không ít doanh nghiệp quyết định đầu tư khi năng lực tài chính chưa được bảo đảm, còn phụ thuộc nhiều vào vốn vay thay vì vốn chủ sở hữu. Điều này làm gia tăng rủi ro tài chính, giảm hiệu quả sử dụng vốn và tác động tiêu cực đến kết quả sản xuất, kinh doanh.
Từ góc độ kiểm toán, một số dự án do doanh nghiệp Nhà nước thực hiện đã hoàn thành nhiều năm nhưng chưa được nghiệm thu, quyết toán; nhiều dự án phải dừng hoặc giãn tiến độ, chậm tiến độ, thậm chí dừng thi công, dẫn đến tồn đọng chi phí đầu tư dở dang lớn. Không ít doanh nghiệp có hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu ở mức cao, tiềm ẩn rủi ro mất cân đối tài chính.
Theo Kiểm toán nhà nước chuyên ngành VI, thời gian qua, các cuộc kiểm toán dự án đầu tư tại doanh nghiệp Nhà nước đã kịp thời đánh giá những mặt tích cực, hiệu quả của dự án; đồng thời phát hiện, chỉ rõ nhiều sai phạm, tồn tại, qua đó đưa ra các kết luận, kiến nghị quan trọng nhằm hạn chế thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. Thông tin kiểm toán cũng được cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền, phục vụ công tác quản lý, điều hành và hoàn thiện cơ chế, chính sách.
Nhiều cuộc kiểm toán dự án lớn, phức tạp đã được triển khai, như: Dự án mở rộng Nhà máy Gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2; các dự án Nhà máy bô xít nhôm của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV)… Qua kiểm toán, Kiểm toán nhà nước đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng, đồng thời đề xuất, kiến nghị với Chính phủ xem xét, xử lý các tồn tại, vướng mắc của dự án.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm toán dự án đầu tư tại các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đối mặt không ít khó khăn, nhất là đối với các công trình có tính chất phức tạp, đa dạng về quy mô và lĩnh vực. Nhiều loại hình công trình thuộc các lĩnh vực công nghiệp, dân dụng, giao thông hoặc các ngành đặc thù như dầu khí, than, điện lực, hóa chất, hàng không có thời gian thực hiện kéo dài, trong khi hệ thống pháp luật, chính sách liên quan thường xuyên thay đổi, chưa thật sự đồng bộ.
Các dự án này đòi hỏi kiểm toán viên phải nghiên cứu, cập nhật khối lượng lớn thông tin, kiến thức chuyên ngành để phục vụ công tác kiểm toán và đánh giá tính tuân thủ. Trong khi đó, việc thu thập thông tin về tiến độ, kết quả thanh tra, kiểm tra và các dữ liệu kinh tế khác của dự án còn gặp nhiều khó khăn do hệ thống thông tin chưa thống nhất, khiến công tác khảo sát, lập kế hoạch kiểm toán kéo dài. Mặc dù ứng dụng công nghệ đã được chú trọng, song việc triển khai công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo trong hoạt động kiểm toán vẫn gặp trở ngại do hạn chế trong khả năng tiếp cận, khai thác dữ liệu từ đơn vị được kiểm toán, cũng như các yêu cầu về bảo mật, quy định pháp lý và năng lực công nghệ.
 |
|
Kiểm toán nhà nước đã cung cấp những thông tin quan trọng và đề xuất, kiến nghị với Chính phủ để xem xét, xử lý các tồn tại, vướng mắc của dự án kéo dài. |
Từ thực tiễn và yêu cầu nâng cao chất lượng kiểm toán, Kiểm toán nhà nước chuyên ngành VI cho rằng, đối với kiểm toán dự án đầu tư tại các doanh nghiệp Nhà nước, cần chú trọng ngay từ khâu xây dựng kế hoạch kiểm toán trung hạn và hằng năm, lựa chọn các chủ đề kiểm toán có trọng tâm, trọng điểm, tạo tác động lan tỏa, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước, đặc biệt là các dự án tiềm ẩn nguy cơ thất thoát, lãng phí. Qua đó, phát huy vai trò cảnh báo, phòng ngừa, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Công tác khảo sát, thu thập thông tin phục vụ phân tích, đánh giá và lựa chọn đầu mối kiểm toán cần được thực hiện sớm, chủ động, dựa trên phân tích dữ liệu và đánh giá rủi ro. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung, cập nhật đồng bộ; tăng cường phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước và các đơn vị liên quan trong kết nối, chia sẻ thông tin; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp rút ngắn thời gian khảo sát, nâng cao chất lượng lập kế hoạch kiểm toán.
Bên cạnh đó, Kiểm toán nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát, hoàn thiện quy trình kiểm toán dự án đầu tư theo hướng thống nhất, phù hợp với thực tiễn; thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao năng lực Kiểm toán viên; tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm sau mỗi cuộc kiểm toán nhằm không ngừng cải thiện quy trình và chất lượng kiểm toán.
Phương pháp kiểm toán dự án đầu tư cần được triển khai một cách tổng hợp, kết hợp chặt chẽ giữa kiểm toán tuân thủ, kiểm toán tài chính và kiểm toán hoạt động; chú trọng đánh giá hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn và tác động kinh tế - xã hội của dự án. Đồng thời, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo để nâng cao khả năng phát hiện sai sót, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động kiểm toán.
HỒNG ANH