 |
Chủ một hộ nuôi rắn giới thiệu sản phẩm với khách tham quan. |
Người dân Vĩnh Sơn xây chuồng nuôi rắn ngay trong ngôi nhà của mình. Dù đã chuẩn bị trước tinh thần nhưng khi được dẫn đi tham quan chuồng trại, nghe những tiếng “phì… phì…” phát ra từ hàng trăm lồng nuôi rắn hổ mang vẫn khiến những người gan dạ cũng phải e ngại. Ông Nguyễn Tiến Dũng, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Sơn cho biết: Hiện nay, trên địa bàn xã có khoảng 800 hộ chăn nuôi rắn, chiếm gần 60% tổng số hộ dân, trong đó chủ yếu là nuôi rắn hổ mang. Các sản phẩm từ rắn của Vĩnh Sơn đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp Giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể. Hiện, giá rắn thương phẩm khá cao. Trung bình một năm, sản lượng rắn thương phẩm xuất bán ước đạt 100 tấn; sản lượng trứng ước đạt 400.000 quả. Thời điểm hiện nay, nhiều thương lái đến đặt mua tại gia đình với mức giá trung bình khoảng 700.000 đồng/kg thịt, 90.000 đồng/1 quả trứng. Tổng thu nhập từ chăn nuôi rắn năm 2017 khoảng 100 tỷ đồng. Được biết, để chủ động tìm đầu ra cho sản phẩm, gia tăng giá trị sản phẩm, một số hộ dân tại xã nghề Vĩnh Sơn đã chủ động liên kết với Trung tâm Y học thể thao (Viện khoa học Thể dục-Thể thao) và Công ty Cổ phần Nam dược chế biến các sản phẩm y học từ rắn. Nhiều sản phẩm đặc trưng như cao rắn, nọc rắn... được người tiêu dùng đón nhận.
Hiệu quả từ nghề nuôi rắn đã rõ, tuy nhiên, quá trình chăn nuôi, phát triển thương hiệu làng nghề rắn Vĩnh Sơn còn gặp một số khó khăn. Sản phẩm rắn Vĩnh Sơn hiện vẫn chủ yếu được thương lái Trung Quốc thu mua, chỉ một số rất ít được tiêu thụ tại thị trường trong nước, nên giá cả không ổn định. Cùng với đó, việc mua bán vẫn dừng lại ở rắn thương phẩm, trứng rắn, còn các sản phẩm chế biến từ rắn thì chưa khai thác hết được tiềm năng, lợi thế kinh tế và giá trị trong y học, nên giá trị gia tăng chưa cao. Đặc biệt, xã nghề Vĩnh Sơn đang gặp nhiều trở ngại trong mở rộng quy mô sản xuất, gây khó khăn cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật.
Ông Nguyễn Tiến Dũng cho biết, quy hoạch làng nghề rắn Vĩnh Sơn đã được UBND tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt từ năm 2006 với tổng diện tích 20,87ha, trong đó giai đoạn 1 đã thu hồi 22.787m2, tuy nhiên, việc giải phóng mặt bằng diện tích còn lại đang gặp nhiều khó khăn do mức đền bù thấp; cơ chế hỗ trợ của tỉnh để thực hiện quy hoạch chưa hấp dẫn; ngân sách xã eo hẹp trong khi kinh phí giải phóng mặt bằng, đầu tư cơ sở hạ tầng rất lớn... Để hỗ trợ xã nghề tháo gỡ những nút thắt trên, ông Nguyễn Tiến Dũng đề xuất: UBND tỉnh và huyện có giải pháp hỗ trợ công tác giải phóng mặt bằng khu quy hoạch làng nghề, có chủ trương và cơ chế cụ thể để giải phóng dứt điểm số diện tích còn lại. Ngoài ra, đề nghị cơ quan quản lý có chính sách khuyến khích, tìm đối tác xuất khẩu sản phẩm theo con đường chính ngạch; quan tâm tạo điều kiện vay vốn, phát triển mô hình nuôi rắn áp dụng kỹ thuật cao. Đặc biệt, có chính sách hỗ trợ tạo dựng và hình thành liên kết giữa nông dân-doanh nghiệp-nhà khoa học dưới sự hỗ trợ của Nhà nước, nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ để nâng cao giá trị sản phẩm và tạo thị trường ổn định.
Bài và ảnh: KHÁNH AN