Để bảo vệ về mặt pháp lý đối với các tài sản trí tuệ và nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường thì việc đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp (KDCN) là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc này chưa được các doanh nghiệpthực sự quan tâm, hơn nữa, nhiều quy định, thủ tục còn phức tạp.

Thời gian chờ cấp chứng nhận quá lâu

Thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) cho biết, năm 2017, số văn bằng bảo hộ về KDCN là 2.267, tăng gần 56% so với năm 2016. Theo ông Lê Xuân Thu, Phụ trách Bộ phận Nhãn hiệu-Kiểu dáng, Văn phòng Luật sư Phạm và Liên doanh, mặc dù số lượng đăng ký bảo hộ KDCN có xu hướng tăng nhưng nhìn chung, doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm tới việc bảo hộ KDCN cho sản phẩm. Nguyên nhân là do tuổi thọ bảo hộ của KDCN ngắn, trong khi thời gian từ khi nộp đơn đến lúc được cấp chứng nhận kéo dài (tối thiểu 8 tháng). Thêm vào đó, việc thiết kế và phát triển sản phẩm trong các doanh nghiệp chưa được chú trọng do đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ, sản phẩm chưa có tính cạnh tranh. Thay vì tự thiết kế sản phẩm, đăng ký bảo hộ kiểu dáng, rất nhiều doanh nghiệp chỉ quan tâm đến việc tra cứu, sao chép kiểu dáng có trước mà chưa được bảo hộ.

Khách hàng lựa chọn sản phẩm tại cửa hàng Nón Sơn (Hoàn Kiếm, Hà Nội) thuộc Công ty TNHH Thời trang Nón Sơn.

Không chỉ tại thị trường trong nước, đối với thị trường nước ngoài, việc đăng ký bảo hộ KDCN cũng không được doanh nghiệp chú trọng. Theo thống kê, số lượng đơn đăng ký KDCN của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Đơn cử tại thị trường Mỹ chỉ có 10 kiểu dáng được đăng ký, hay tại Liên minh châu Âu có khoảng 166 kiểu dáng. Các kiểu dáng đăng ký chủ yếu là xe, máy móc, thiết bị điện và điện tử… tập trung vào các tập đoàn lớn, như: Viettel, Vingroup, FPT...

Lý giải về điều này, ông Đinh Hữu Phí, Cục trưởng Cục SHTT, cho biết, hiện nay, các doanh nghiệp, cá nhân muốn bảo hộ KDCN của mình ở nước ngoài chỉ có một hình thức duy nhất là nộp đơn đăng ký trực tiếp cho các cơ quan SHTT của từng quốc gia theo thủ tục của nước đó và có nhiều khoản chi phí phát sinh. Các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài cũng gặp các khó khăn tương tự khi muốn bảo hộ quyền của mình tại Việt Nam. Chính những khó khăn này khiến lượng đơn đăng ký bảo hộ KDCN của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam cũng như của Việt Nam ra nước ngoài còn hạn chế. 

Cần tham gia thỏa ước quốc tế về kiểu dáng công nghiệp

Là một trong số ít doanh nghiệp đã đăng ký bảo hộ KDCN tại Nhật Bản, Mỹ, ông Nguyễn Ngọc Tý, Giám đốc điều hành Công ty TNHH Thời trang Nón Sơn chia sẻ, dù đã đăng ký bảo hộ KDCN cho sản phẩm ở thị trường nước ngoài, song sản phẩm hiện vẫn chỉ tiêu thụ nội địa là chính, việc xuất khẩu đa phần qua đường tiểu ngạch. “Mặc dù biết tầm quan trọng của việc đăng ký bảo hộ KDCN ở nước ngoài nhưng doanh nghiệp hiện chưa đăng ký thêm tại quốc gia nào vì chưa thực sự thấy cần thiết với quy mô hoạt động của mình”, ông Tý cho biết.

Thực tế đòi hỏi cơ quan quản lý SHTT của nước ta cần xây dựng các chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài khi đăng ký bảo hộ KDCN tại Việt Nam, cũng như doanh nghiệp, cá nhân Việt Nam đăng ký bảo hộ KDCN tại nước ngoài. Một trong những chính sách có thể kể đến là việc tham gia điều ước quốc tế nhằm đơn giản hóa thủ tục xác lập quyền SHTT, cụ thể là Thỏa ước Lahay về đăng ký quốc tế KDCN, hiện do Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) quản lý.

Bà Paivi Lahdesmaki, Cố vấn cao cấp, Bộ phận Đăng bạ Lahay, Tổ chức WIPO khẳng định, việc bảo hộ KDCN nhằm ngăn chặn hành vi sao chép trái phép hoặc giả mạo, nâng cao vị thế, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và tạo khả năng sinh lợi cho doanh nghiệp. Tham gia Thỏa ước Lahay về đăng ký quốc tế KDCN sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam dễ dàng đăng ký và bảo hộ KDCN ở gần 70 nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài dễ dàng đăng ký và bảo hộ KDCN ở Việt Nam. Ngoài ra, hình thức đăng ký đơn giản, tiết kiệm chi phí. Bên cạnh đó, chủ sở hữu có không ít cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm tới nhiều quốc gia.

Các chuyên gia đề xuất, Việt Nam cần không ngừng hoàn thiện khung pháp lý về SHTT, cải cách thủ tục hành chính, tập huấn cho các cơ quan quản lý và thực thi SHTT ở địa phương và các doanh nghiệp. Đặc biệt, cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực SHTT. Ông Đinh Hữu Phí cho biết thêm: Bên cạnh việc tiến hành thủ tục gia nhập Thỏa ước Lahay, Cục SHTT đang hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin, hệ thống quản trị đơn, chuẩn bị nguồn nhân lực phù hợp, có trình độ cao để có thể xử lý trực tiếp đơn quốc tế.

Bài và ảnh: LA DUY