Trong những năm qua, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ đã góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân Việt Nam. Những thức ăn ngon, bổ dưỡng trở nên quen thuộc với nhiều gia đình. Vì vậy, những nghiên cứu được đưa ra tại hội nghị về dinh dưỡng toàn quốc được tổ chức ngày9-3 tại Hà Nội cho thấy đang xuất hiệnnghịch lý: Trong khi một bộ phận lớn người dân vẫn bị suy dinh dưỡng thì một bộ phận không nhỏ khác đang phải vật lộn với chứng béo phì.
Nơi lo còi cọc…
Báo cáo của Ban chỉ đạo chất lượng quốc gia dinh dưỡng (Bộ Y tế) cho thấy trong giai đoạn các năm 2001-2005, tỷ lệ suy dinh dưỡng chiều cao và cân nặng ở trẻ dưới 5 tuổi mỗi năm đã giảm 1,5%. Tuy nhiên, tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng ở trẻ em dưới 5 tuổi vẫn ở mức cao là 25,2% vào năm 2005.
Số trẻ em bị suy dinh dưỡng chủ yếu nằm ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Kết quả điều tra 1.229 học sinh từ lớp 1 đến lớp 3 (từ 6 đến 9 tuổi) của 6 trường tiểu học thuộc vùng nông thôn nghèo ở 3 tỉnh phía bắc là Bắc Giang, Hưng Yên và Bắc Ninh cho thấy: thiếu dinh dưỡng, thiếu máu vẫn đang là vấn đề nhức nhối tại các địa phương này. Ở 3 điểm nghiên cứu, số trẻ có CN/T (cân nặng/tuổi) thấp và CC/T (chiều cao/tuổi) thấp, thiếu máu chiếm một tỷ lệ rất cao so với phân loại của tổ chức Y tế thế giới. Tỷ lệ thiếu máu có sự dao động theo địa điểm nghiên cứu: số học sinh thiếu máu ở hai xã miền núi tỉnh Bắc Giang là 30,3%, Hưng Yên là 23,1%, và Bắc Ninh là 17,2%. Thiếu máu cao nhất ở nhóm học sinh lớp 1 và thấp dần ở các học sinh lớp 2 và lớp 3. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em lứa tuổi tiểu học đóng một vai trò quan trọng vì đây là giai đoạn dự trữ cho sự phát triển nhanh chóng của cơ thể trong thời kỳ dậy thì.
Nhờ kết quả của các chương trình phòng, chống thiếu vi chất dinh dưỡng ở nước ta trong thời gian qua, tình trạng thiếu vitamin A, thiếu I-ốt đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, tại một số vùng tình trạng thiếu vi-ta-min A vẫn chưa được thanh toán hoàn toàn.
Nơi sợ béo phì
Trong khi đó, tình trạng thừa-cân béo phì ở người trưởng thành, người dân ở các thành phố lớn đang có xu hướng tăng nhanh, chiếm tới 16,3% người trưởng thành từ 25 đến 64 tuổi và trở thành vấn đề đáng lưu tâm đối với sức khỏe cộng đồng. Những tác động xấu của thừa cân-béo phì làm gia tăng các bệnh mãn tính không lây như rối loạn chuyển hóa li-pít máu, tăng huyết áp, rối loạn đường huyết… sẽ làm suy giảm khả năng lao động trong tương lai.
Ở nước ta, trước năm 1995, các cuộc điều tra dịch tễ học cho thấy tỷ lệ thừa cân không đáng kể, béo phì gần như không có. Thế nhưng, cuộc tổng điều tra thừa cân-béo phì năm 2005 do Viện Dinh dưỡng tiến hành lại cho kết quả: nếu lấy ngưỡng BMI > 23 thì tính chung toàn quốc, số người thừa cân-béo phì chiếm tỷ lệ là 16,3%, trong đó 9% người trong nhóm tuổi 45-54 bị béo phì. Hiện nay một bộ phận dân cư đô thị có thu nhập cao tiêu thụ thịt, chất béo, thức ăn nhanh và nguồn glu-xít tinh chế (đường ngọt) rất cao so với mức trung bình.
Một đặc điểm quan trọng là tỷ lệ béo bụng qua các nghiên cứu ở Việt Nam khá cao. Béo bụng và tỷ lệ mỡ cơ thể cao nhất ở chị em phụ nữ. 19,4% phụ nữ có tỷ lệ mỡ cơ thể cao và điều quan trọng hơn là khối mỡ thừa lại thường có xu hướng đọng ở vùng bụng, khiến 64% phụ nữ bị béo bụng.
Việc tăng tiêu thụ thức ăn nhiều chất béo, thức ăn chế biến sẵn năng lượng cao, lối sống tĩnh tại đang là nguyên nhân khiến nhiều người gia tăng trọng lượng cơ thể. Rồi cuộc sống bận rộn làm thời gian dành cho bữa ăn bị hạn chế, lượng thức ăn của cả ngày được dồn vào bữa tối càng tạo điều kiện cho việc tích mỡ. Chế độ ăn của người Việt Nam vốn vẫn nhiều tinh bột, ít rau, nay lại phát huy các món xào, rán nên nhiều người tăng cân một cách từ từ, đều đặn mà không nhận ra. Tình trạng tăng tiêu thụ rượu bia cũng là nguyên nhân gây thừa cân, tích mỡ bụng, mắc chứng rối loạn chuyển hóa cao.
Đẩy mạnh hỗ trợ dinh dưỡng cho vùng khó khăn
Để cải thiện tình hình, Ban chỉ đạo chất lượng dinh dưỡng quốc gia cho rằng phải thực hiện được các mục tiêu từ nay đến năm 2010, cụ thể như: tỷ lệ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu tăng 20% (so với năm 2005), 60% bà mẹ có kiến thức và thực hành dinh dưỡng đúng, tỷ lệ thiếu cân ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống dưới 20%, tỷ lệ suy dinh dưỡng chiều cao của trẻ dưới 5 tuổi tiếp tục giảm 5% mỗi năm, tỷ lệ thừa cân ở trẻ em dưới 5 tuổi được duy trì dưới 5%…
Trước hết, ngành y tế cần triển khai và thực thi các chính sách hỗ trợ dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe người nghèo ở vùng sâu, vùng xa, ưu tiên các nguồn lực cho những vùng này. Huy động tất cả các nguồn lực, không chỉ là từ nguồn lực nhà nước mà quan trọng hơn là nguồn lực các địa phương, các doanh nghiệp, của cộng đồng cho công tác dinh dưỡng, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về dinh dưỡng. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm đến việc hạn chế hiện trạng thừa cân-béo phì ở các thành phố lớn. Ngành nông nghiệp cần có chính sách an ninh lương thực cho từng khu vực, từng giai đoạn, hoạch định phát triển sản xuất thực phẩm theo yêu cầu dinh dưỡng hợp lý và an ninh thực phẩm. Ngành lao động-thương binh-xã hội cần có chính sách phối hợp dinh dưỡng trong chương trình xóa đói giảm nghèo. Các ngành khác cũng cần có chính sách chăm sóc dinh dưỡng lồng ghép trong các chính sách và hoạt động của mình.
Công tác đào tạo mạng lưới dinh dưỡng ở Việt Nam cần được tiếp tục tăng cường. Hiện cả nước mới đào tạo được 6 tiến sĩ chuyên ngành dinh dưỡng. Con số này cần phải lớn hơn nhiều trong những năm tới mới mong đáp ứng được nhu cầu cải thiện vóc dáng người Việt Nam.
QUỲNH DƯƠNG