Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã ghi nhận một số ý kiến của đại diện cơ quan nghiên cứu, chuyên gia kinh tế, lãnh đạo doanh nghiệp dự báo những tác động của CPTPP tới nền kinh tế Việt Nam.

Sản xuất veston bằng máy móc công nghệ cao tại Tổng công ty May 10. Ảnh: MINH ĐỨC

* Tiến sĩ Trần Toàn Thắng, Trưởng ban Kinh tế Thế giới, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế-xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

GDP Việt Nam có thể tăng thêm khoảng 1,32%/năm

Đánh giá tổng quát, CPTPP có tác động tích cực tới kinh tế Việt Nam. Cơ hội lớn nhất là việc tiếp cận các thị trường xuất khẩu (XK) mới ở châu Mỹ cũng như tận dụng mức cam kết mở cửa sâu hơn với các hiệp định thương mại tự do hiện nay.

Ông Trần Toàn Thắng.

Do tác động của cắt giảm thuế quan, CPTPP có thể giúp GDP của nước ta tăng thêm 1,32%/năm, tương đương với 1,7 tỷ USD và có thể tăng tới 2,01%/năm nếu Việt Nam thực hiện đồng thời cắt giảm thuế quan và tự do hóa dịch vụ theo kịch bản mở cửa dịch vụ. Đồng thời, Việt Nam có thể tăng tổng kim ngạch XK khoảng 4%/năm (tương đương 4,09 tỷ USD). Do tốc độ tăng XK cao hơn nhập khẩu, thâm hụt thương mại có thể được kiềm chế.

Về tác động cụ thể của CPTPP tới từng lĩnh vực thì ngành công nghiệp nhẹ và thâm dụng lao động vẫn được hưởng lợi. Hiệp định có thể tạo thêm mức tăng trưởng cho nhóm ngành này 4-5% và mức tăng XK có thể đạt thêm 8,7-9,6%.

Ngược lại, mức ảnh hưởng của Hiệp định CPTPP tới các ngành công nghiệp nặng khá mờ nhạt. Lý do chủ yếu là bởi Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh ở nhóm hàng công nghiệp nặng và các đối tác trong Hiệp định CPTPP cũng không phải là các đối tác có thể thúc đẩy công nghiệp nặng của Việt Nam phát triển. Bên cạnh đó, do tác động của Hiệp định CPTPP, tốc độ tăng trưởng sản lượng của một số ngành có thể giảm, bao gồm chăn nuôi, chế biến thực phẩm và dịch vụ bảo hiểm. Ngành chăn nuôi là ngành bị ảnh hưởng nhiều từ Hiệp định CPTPP do sức cạnh tranh của ngành này rất yếu. Với ngành chế biến thực phẩm, do có lộ trình cắt giảm thuế quan khá chậm so với các nhóm ngành khác nên tác động cũng không thật sự lớn nếu tính bình quân/năm cũng như ở giai đoạn đầu của Hiệp định CPTPP.

Do đó, muốn tận dụng được lợi ích và hạn chế tác động tiêu cực từ CPTPP thì Việt Nam phải xây dựng một kế hoạch hành động tổng quát cho nền kinh tế, trong đó chiếu sâu vào từng nhiệm vụ của từng nhóm ngành. Bên cạnh đó, Chính phủ cần tập trung nhiều hơn cho cải cách thể chế.

NAM TRỰC (ghi)

* Lê Tiến Trường, Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam:

Kim ngạch xuất khẩu dệt may sẽ tăng khoảng 3-3,5 tỷ USD/năm

Dệt may Việt Nam là một trong những ngành được dự báo sẽ hưởng lợi nhiều nhất khi CPTPP chính thức có hiệu lực. Ngành dệt may Việt Nam xác định nếu không có CPTPP thì việc duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch XK hơn 3 tỷ USD trong những năm tới là hết sức khó khăn. Nếu CPTPP và Hiệp định thương mại Việt Nam-Liên minh châu Âu có hiệu lực thì dệt may Việt Nam có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng về kim ngạch XK khoảng 3-3,5 tỷ USD/năm.

Ông Lê Tiến Trường.

CPTPP có những thị trường đầy tiềm năng cho ngành dệt may như Australia, Canada. Đây là hai thị trường có sự phát triển cao, sử dụng dệt may khá lớn với tổng nhu cầu khoảng 10 tỷ USD/năm trong khi thị phần XK của dệt may Việt Nam vào hai thị trường này hiện còn nhỏ, chỉ khoảng 500 triệu USD/năm. Vì vậy, dệt may Việt Nam nhìn thấy CPTPP rất nhiều cơ hội để mở rộng kim ngạch XK vào hai thị trường này để đóng góp vào mục tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2018 đạt 34 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2017.

Để gia tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam, giải pháp cơ bản của ngành vẫn là phải tiếp tục có được chất lượng tốt, giao hàng đúng hẹn và giá cả hợp lý nhất. Dệt may Việt Nam không đi theo hướng nhận đơn hàng giá rẻ nhất mà đi theo hướng giá hợp lý nhất với sự đòi hỏi về tay nghề và kỹ thuật cao. Giải pháp cho vấn đề này chính là đầu tư đúng công nghệ của giai đoạn hiện nay, nâng cao năng suất không chỉ thông qua tay nghề của người lao động mà còn qua hệ thống sản xuất, quản lý, tin học hóa trong quản trị và tự động hóa từng bước, từng khâu trong sản xuất của ngành dệt may Việt Nam.

VŨ DUNG (ghi)

* Ông Đào Phan Long, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI)

Phải tăng cường nội lực cho doanh nghiệp

Với lĩnh vực cơ khí, do đặc thù lịch sử để lại nên hiện nay tiềm lực chưa lớn mạnh, do vậy, để tham gia hiệu quả vào CPTPP cần phải có thời gian mà nội lực chính là từ các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam phải vươn lên. CPTPP mở rộng thị trường cho nước ta nhưng ngược lại chúng ta cũng phải mở cửa thị trường cho các nước khác. Câu hỏi rất lớn được đặt ra đó là trong khi nội lực của doanh nghiệp cơ khí còn yếu chúng ta có giữ vững và tiếp tục phát triển thị trường cơ khí được không hay bị doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh? Điều này không chỉ đặt ra thách thức với Chính phủ trong việc giải quyết hệ thống chính sách vĩ mô mà còn là thách thức với doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn có đơn hàng ra nước ngoài phải tuân thủ từ tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng quản lý sản phẩm đến chất lượng nguồn nhân lực.

Ông Đào Phan Long.

Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam muốn liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nước ngoài phải chủ động tìm kiếm đối tác, tạo được sự tin tưởng, hợp tác với nhau trong chuyển giao công nghệ, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Nhưng để doanh nghiệp thực hiện được điều này phải dựa trên cơ sở là hệ thống chính sách của Nhà nước. Trong đó, Nhà nước vừa khuyến khích đầu tư, kêu gọi hợp tác quốc tế nhưng vừa phải có chính sách bảo vệ doanh nghiệp và thị trường nội địa. Hội nhập kinh tế quốc tế càng sâu rộng thì nỗ lực của doanh nghiệp và chính sách của Nhà nước càng phải rõ ràng, nhất quán.

MẠNH HƯNG (ghi)

* TS Nguyễn Minh Phong, Chuyên gia kinh tế:

Xác định lĩnh vực có lợi thế để đầu tư trọng tâm

Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, do vậy, chúng ta sẵn sàng đón nhận CPTPP. Đối với cộng đồng doanh nghiệp, để chuẩn bị cho CPTPP việc đầu tiên phải làm là nhận diện cơ hội và thách thức, từ đó tìm ra lời giải. Cơ hội đầu tiên đến từ việc cắt giảm thuế nhưng còn cơ hội khác mà ít người để ý đó là tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Mặt khác, doanh nghiệp phải đối mặt với thách thức cạnh tranh và quan trọng nhất là phải vượt qua hàng rào kỹ thuật của các nước. Như vậy, hai nhiệm vụ trọng tâm, mấu chốt mà doanh nghiệp cần phải hướng đến là khai thác lợi thế để tham gia chuỗi và vượt qua hàng rào kỹ thuật để đưa hàng hóa, sản phẩm vào thị trường các nước.

Ông Nguyễn Minh Phong.

Tuy nhiên, để thực hiện những nhiệm vụ này, doanh nghiệp cần có sự đồng hành của hiệp hội, cơ quan quản lý Nhà nước. Trong đó, cần xem xét những điểm mình có lợi thế để xác định các chuỗi ngành, sản phẩm chủ lực, tập trung đầu tư giải pháp kỹ thuật, nhân lực để thích ứng. Xu hướng trong tương lai, những ngành thâm dụng nhiều lao động sẽ kém đi, còn lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao sẽ có triển vọng. Tuy nhiên, không phải cứ đầu tư vào công nghệ cao thì sẽ thành công mà cần phải tập trung vào những lĩnh vực có lợi thế, sản xuất ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường. Thứ hai, phải tiếp cận thông tin, chính sách mới để từ đó có phản ứng chính sách, phản ứng thị trường phù hợp. Thứ ba là doanh nghiệp cần chú trọng liên kết chặt chẽ với nhau hơn nữa, đây là điểm mà doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Liên kết để bảo vệ thị trường trong nước và vượt qua hàng rào kỹ thuật của nước ngoài.

BẢO LINH (ghi)