QĐND - “Đổi mới toàn diện đã khó, đổi mới căn bản còn khó hơn nhiều. Nhưng lần này, chúng ta sẽ phải thay đổi căn bản, thực sự là một cuộc cách mạng về giáo dục và đào tạo”. Đồng chí Phạm Vũ Luận, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trao đổi như vậy với phóng viên Báo Quân đội nhân dân về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay…
 |
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận. Ảnh: NGUYÊN MINH
|
Bất cập trong "ngôi nhà" giáo dục
Phóng viên (PV): Thưa Bộ trưởng, đánh giá về thực trạng giáo dục và đào tạo tại Nghị quyết 29 lần này, đâu là những vấn đề cần được nhìn nhận nghiêm túc, thẳng thắn nhất?
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: Trong quá trình xây dựng đề án, có nhiều bậc lão thành cách mạng rất lo lắng và luôn nhắc nhở chúng tôi cần phải tránh hai cách tiếp cận. Cách thứ nhất là cực đoan phê phán, phủ nhận sạch trơn thành quả của nền giáo dục cách mạng với bao nhiêu công sức, đầu tư của các thế hệ nhà giáo, nhân dân và Nhà nước. Cách thứ hai là bảo thủ, trì trệ, không thấy khuyết điểm, yếu kém mà cứ tự mãn với những thành tựu đạt được.
Vì thế, trong đề án và nghị quyết lần này, với thái độ thực sự cầu thị, thẳng thắn nhìn vào sự thật, Trung ương khẳng định 8 thành tựu và 10 hạn chế của giáo dục Việt Nam, trong đó có những yếu kém đã được phát hiện qua nhiều năm mà vẫn chưa giải quyết được, thậm chí còn trầm trọng hơn, gây bức xúc trong toàn xã hội.
Trong số 8 thành tựu quan trọng, có thể nhắc tới hai thành tựu lớn sau. Thứ nhất: Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, đã xây dựng được nền giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân để nâng cao trình độ đào tạo, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động. Thứ hai: Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên một bước, góp phần đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về những hạn chế và yếu kém, nghị quyết đã thẳng thắn chỉ rõ 10 vấn đề, ví dụ như:
- Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Chất lượng giáo dục có tiến bộ so với bản thân nó trước đây, nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì chưa đáp ứng, chưa đưa nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành thế mạnh thực sự của đất nước.
- Hệ thống giáo dục còn cứng nhắc, thiếu tính liên thông giữa các trình độ đào tạo và các phương thức giáo dục. Hệ thống giáo dục của chúng ta hiện nay được ví như một nhà cao tầng (từ mầm non đến thạc sĩ, tiến sĩ), đáng lẽ phải có lối đi liên thông trong tất cả các tầng, nhưng hiện muốn đi từ tầng 2, tầng 3 lên tầng 4, tầng 5 phải đi xuống tầng 1.
- Chương trình giáo dục còn coi nhẹ thực hành, coi nhẹ vận dụng kiến thức; thiếu gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, với thực tiễn sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động;
- Phương pháp giáo dục, kiểm tra, thi và đánh giá lạc hậu, nhiều bất cập. Chúng ta chưa chú ý đến việc giúp học sinh hình thành các kỹ năng mềm; dạy quá nặng về lý thuyết, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc.
- Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Giáo dục được ưu tiên “đầu tư trước”
PV: Được biết, nghị quyết đổi mới lần này có nhiều quan điểm phát triển đột phá. Xin Bộ trưởng chỉ ra một số nội dung cơ bản?
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: Quan điểm chỉ đạo của nghị quyết là kế thừa những quan điểm, nguyên lý giáo dục truyền thống của Việt Nam còn nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới giáo dục đào tạo hôm nay, đồng thời cụ thể hóa và phát triển thêm một số quan điểm chỉ đạo mới. Luận điểm “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển” đã được khẳng định trong các văn kiện trước đây của Đảng, nay được bổ sung, cụ thể hoá thêm: Đầu tư cho giáo dục được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
Trước đây, trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, chúng ta bàn nhiều về nguồn vốn, thiết bị, đất đai, nhà cửa nhưng thường chưa bàn đầy đủ, đúng tầm về nguồn nhân lực. Gần đây, Chính phủ đã phát hiện ra vấn đề này và đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực của ngành, của địa phương mình. Như vậy, Nghị quyết 29 khẳng định đào tạo nguồn nhân lực là một bộ phận, và là bộ phận rất quan trọng của chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, phải được ưu tiên, quan tâm thực sự...
Cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc
PV: Tại sao lần đổi mới này chúng ta không dùng cụm từ đổi mới giáo dục mà lại đặt vấn đề đổi mới “căn bản, toàn diện”?
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: Trong hai nội dung nêu trên, nội dung “đổi mới toàn diện” tìm lời giải sớm hơn. Nhưng trả lời câu hỏi “Thay đổi thế nào là căn bản?” thì khó khăn, đến Hội nghị Trung ương 6 vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, ngoài xã hội vẫn còn nhiều bàn luận, băn khoăn và phải đến Hội nghị Trung ương 8 mới thống nhất được.
Đổi mới toàn diện tức là thay đổi toàn bộ (cả chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy, phương pháp học và thi cử; cả ở phổ thông và cả ở đại học; cả thầy và cả trò...); là thay đổi tổng thể, có hệ thống (có trước có sau, có trên có dưới, có trong có ngoài, có chính có phụ...) tất cả các yếu tố, các quan hệ của ngành giáo dục và giữa ngành giáo dục với các ngành khác.
Còn đổi mới căn bản là thế nào?
Tôi xin giải thích rõ việc này: Cho đến nay, chúng ta đã tiến hành 3 lần cải cách giáo dục. Lần cải cách nào cũng có những mục tiêu và giải pháp cụ thể và đều đạt được những kết quả rất đáng trân trọng. Tuy nhiên cả 3 lần cải cách đều chưa thay đổi được quan điểm chỉ đạo của việc thiết kế mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục và đặc biệt là chưa thay đổi được phương pháp dạy, phương pháp học và phương pháp kiểm tra, thi cử và đánh giá.
Qua tổng kết, đánh giá thực trạng về giáo dục Việt Nam hiện nay và tham khảo kinh nghiệm quốc tế về quá trình phát triển khoa học giáo dục, về tổ chức dạy-học ở trường phổ thông, chúng tôi nhận thấy: Cách thiết kế chương trình và cách dạy, cách học của chúng ta hiện tại giống như của các nước khác cách đây 30-40 năm trở về trước. Với thực tế khối lượng kiến thức của nhân loại phát triển rất nhanh hiện nay, cách thiết kế như vậy ngày càng dồn ép khối lượng lớn kiến thức vào nhà trường, dồn từ bậc đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ xuống đến trường phổ thông, và dẫn đến quá tải. Nội dung dạy và học mang tính hàn lâm, xa rời cuộc sống, không được sử dụng đến trong thực tế đời sống thường ngày. Với cách thiết kế các môn học ở các lớp thành các vòng tròn đồng tâm, nội dung giáo dục bị trùng lặp, trong đó có nhiều sự trùng lặp dù biết trước mà không thể tránh được.
Cách dạy và học trong nhà trường về cơ bản là: Thầy giảng giải kiến thức, trò tiếp nhận và ghi nhớ kiến thức thầy trao cho. Cách dạy như vậy cộng hưởng với cách thi, cách đánh giá (ai nhớ nhiều, học thuộc nhiều, đưa đúng đáp số thì điểm cao) đã làm cho tình trạng quá tải, nhồi nhét kiến thức và dạy thêm, học thêm tràn lan có cơ hội phát triển.
Cho nên lần này, chúng ta sẽ phải thay đổi căn bản.
Thứ nhất, cách thiết kế chương trình và tổ chức biên soạn SGK mới sẽ có sự thay đổi lớn, với nguyên tắc: Tích hợp cao ở lớp và cấp học dưới; tự chọn và phân hóa cao ở lớp và cấp học trên. Cách thiết kế này cho phép lựa chọn có chủ đích trong khối kiến thức rất lớn, rất phong phú của các lĩnh vực khoa học những nội dung phù hợp với lứa tuổi (tâm lý, kỹ năng, nhận thức…) của học sinh phổ thông, gần với cuộc sống, thiết thực tham gia vào quá trình hình thành phẩm chất và năng lực của người lao động mới.
Thứ hai, chúng ta sẽ chuyển từ việc dạy và học chủ yếu là truyền thụ kiến thức một chiều từ thầy sang trò sang phương pháp giáo dục nhằm hình thành năng lực và phẩm chất của con người lao động mới. Nếu trước đây, việc truyền thụ kiến thức là mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của giáo viên thì bây giờ việc truyền thụ kiến thức là phương tiện, là con đường, là cách thức để giúp học sinh, sinh viên từng bước hình thành phẩm chất, năng lực của con người mới.
Trong thiết kế hoạt động giáo dục tới đây, các học sinh sẽ được học theo nhóm, được trình bày và bảo vệ ý kiến của mình, được lắng nghe và phản biện ý kiến của bạn, và có thể nhận được điểm số giống nhau cho những đáp án khác nhau.
PV: Gần đây, đổi mới giáo dục đại học đã có nhiều bước đi mạnh mẽ, trước cả khi có Nghị quyết 29. Xin Bộ trưởng khái quát một số công việc và những vấn đề tâm huyết đang triển khai?
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: Với giáo dục đại học, chúng tôi đã bắt đầu đổi mới sớm hơn, từ ngay sau Đại hội Đảng lần thứ XI. Chúng tôi đã triển khai xây dựng Luật Giáo dục đại học, theo đó giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trường, bao gồm cả việc “tự chủ tuyển sinh”. Trên tinh thần phân cấp, chúng tôi đã giao cho hiệu trưởng tự quyết định mọi khâu trong quá trình đào tạo. Bộ chỉ quản lý việc mở ngành, với lý do duy nhất là để kiểm soát, cân đối tổng “cung” lao động cho phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động. Vừa qua, Bộ đã tạm dừng tuyển sinh những ngành đào tạo không đủ điều kiện bảo đảm chất lượng (từ bậc tiến sĩ, thạc sĩ đến đại học), dừng tuyển sinh ở những trường đại học để xảy ra vi phạm; đã siết chặt các điều kiện mở trường và mở ngành…
Trong thời gian tới, đổi mới giáo dục đại học sẽ mạnh mẽ hơn, thay đổi từ hệ thống giáo dục đóng sang hệ thống giáo dục mở. Chúng ta sẽ phải chuyển từ đào tạo theo khả năng của các nhà trường sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội, của thị trường lao động, phù hợp với khả năng và thế mạnh của nhà trường. Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học đã và sẽ được tăng cường, trách nhiệm trước xã hội của các cơ sở giáo dục đại học sẽ phải nâng cao… Đặc biệt, đổi mới các trường sư phạm phải được tiến hành trước một bước so với đổi mới giáo dục phổ thông.
Kiên quyết đổi mới tuyển sinh
PV: Những đổi mới về tuyển sinh đại học, cao đẳng của Bộ gần đây có quan hệ như thế nào đối với giáo dục phổ thông?
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: Tôi xin chia sẻ một thực tế: Bên Hàn Quốc cũng như ta, cả xã hội căng thẳng thi đại học. Đã có việc vợ một vị giáo sư phải nghỉ một năm ở nhà không đi làm để phục vụ con thi đại học, và ba tháng cuối cùng thì ông giáo sư này tiếp tục xin nghỉ để tiếp lực cho vợ và con.
Sai lầm của chúng ta thời gian qua là đẩy việc tuyển sinh lên thành việc lớn, làm cho không chỉ ngành giáo dục mà toàn xã hội căng thẳng. Thi, tuyển sinh là một vấn đề rất quan trọng nhưng không phải là hoạt động duy nhất của quá trình giáo dục-đào tạo.
Để bảo đảm và nâng cao chất lượng đại học cần phải có một ngưỡng chất lượng đầu vào, nhưng đó không phải là yếu tố quyết định duy nhất. Một ví dụ đơn giản: Các em học sinh của chúng ta thi trượt đại học trong nước, được gia đình cho đi du học nước ngoài thì vẫn học được. Nói thế không phải là coi nhẹ yếu tố chất lượng đầu vào, nhưng hiện chúng ta đang quá coi trọng vấn đề này, dẫn đến cả trong nhận thức và hành động, vấn đề tuyển sinh lấn át và làm lu mờ nhiều việc quan trọng khác. Cần đổi mới căn bản tư duy, nhận thức về việc này.
Chất lượng đầu ra và khả năng tìm được việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp mới là điều quan trọng và quyết định vấn đề tuyển sinh của các trường. Các bậc phụ huynh học sinh sẽ tự cân nhắc và cùng với con em mình lựa chọn ngành, trường cho các cháu vào học. Bằng đồng tiền của mình, họ sẽ lựa chọn trường và bỏ phiếu đánh giá chất lượng các cơ sở đào tạo của chúng ta.
Tự chủ tuyển sinh là việc dứt khoát phải làm.
Nếu không thay đổi cách thi tuyển sinh đại học thì làm sao thay đổi được cách học, cách dạy ở phổ thông để nâng cao chất lượng?
Nếu không thay đổi việc thi tuyển sinh đại học thì làm sao có đầu vào của trường đại học là những học sinh có đủ năng lực và phẩm chất cần thiết để đào tạo ra con người lao động mới?
Vì lợi ích của người học, vì lợi ích lâu dài của đất nước, chúng ta phải đổi mới. Theo tôi, đó là cách suy nghĩ và hành động đúng của chúng ta trong thời khắc quan trọng này.
PV: Xin trân trọng cảm ơn đồng chí!
Những bước đi mạnh dạn
- Khẩn trương hoàn thành Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau 2015 để trình Chính phủ phê duyệt. Chương trình này có rất nhiều đổi mới, hiện đại hóa, thay đổi căn bản cách dạy và học.
- Tháng 12-2013: Công bố Dự thảo cho phép các trường được tự chủ tuyển sinh đại học, cao đẳng để đến năm 2017, không còn kỳ thi “3 chung”, có thể hợp nhất hai kỳ thi tốn kém làm một. Hiện nhiều trường đã xây dựng phương án tuyển sinh riêng có thể áp dụng ngay từ năm 2014.
- Đầu tháng 1-2014, công bố Dự thảo đổi mới kỳ thi tốt nghiệp THPT, giảm môn thi và cho phép học sinh chọn lựa môn thi tốt nghiệp, mở rộng việc miễn thi...
- Cuối tháng 1-2014, quyết định dừng tuyển sinh đối với 207 ngành đào tạo đại học không đủ tiêu chuẩn về đội ngũ giảng viên…
|
NGUYÊN MINH (thực hiện)
Bài 4: Chấn hưng giáo dục bằng hành động cụ thể (*)
Bài 3: Phác thảo con đường đổi mới trong các trường quân đội
Bài 2: Giáo viên-lực lượng chủ công trong đổi mới
Bài 1: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo