Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Tuy nhiên, mọi chuyện thay đổi khi vào năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc Đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giờ đây, Việt Nam là một trong những “ngôi sao” trong nhóm các nền kinh tế mới nổi với tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 6 đến 7%/năm. Trong khi GDP bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 1985 chỉ là 230USD thì tới năm 2017, con số này đã tăng hơn 10 lần và đạt 2.343USD. Từ quần áo thể thao Nike cho đến điện thoại thông minh Samsung đều được sản xuất tại quốc gia ASEAN này. Kinh tế Việt Nam thành công tới mức chuyên gia Sheng Lu thuộc Đại học Delaware của Mỹ phải nhận định với tờ Financial Times rằng, quốc gia này có rất ít người lao động hoặc cơ sở sản xuất nhàn rỗi.
Điều gì đã làm nên sự thần kỳ của nền kinh tế Việt Nam?
Một là, Việt Nam đã nắm bắt được lợi ích của tự do hóa thương mại. Trong 20 năm qua, Việt Nam đã ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do với Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc… gần đây nhất là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Những hiệp định này giúp giảm bớt hàng rào thuế quan đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Hai là, Việt Nam đã nỗ lực cải cách hướng tới một nền kinh tế mở. Vào năm 1987, Việt Nam lần đầu ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, cho phép các công ty nước ngoài có thể vào làm ăn tại Việt Nam. Kể từ đó, Luật Đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi nhiều lần theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả những nỗ lực của Việt Nam được phản ánh qua các bảng xếp hạng quốc tế. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của WEF, từ vị trí thứ 77 vào năm 2006, Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 55 trong năm 2017. Trong khi đó, theo Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam xếp vị trí thứ 68 trong năm 2017 về mức độ thuận lợi trong kinh doanh so với vị trí thứ 104 hồi năm 2007.
 |
Hình ảnh Thủ đô Hà Nội của Việt Nam chụp từ trên cao. Ảnh: Shutterstock. |
Ba là, Việt Nam đã chú trọng đầu tư vào nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng. Trong bối cảnh dân số gia tăng với 95 triệu dân hiện nay so với con số 60 triệu dân vào năm 1986, và một nửa dân số hiện ở độ tuổi dưới 35, Việt Nam đã đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục. Điều này là cần thiết vì dân số gia tăng cũng đồng nghĩa nhu cầu việc làm tăng lên. Ngoài ra, Việt Nam còn chi mạnh cho cơ sở hạ tầng nhằm bảo đảm người dân có thể tiếp cận internet giá rẻ. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang “gõ cửa” Đông Nam Á, vì vậy, có được cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin vững chắc là một sự chuẩn bị cần thiết.
Những khoản đầu tư này đã mang lại kết quả. Với cơ sở hạ tầng thiết yếu cùng các chính sách thân thiện với thị trường, Việt Nam đã trở thành một trung tâm thu hút đầu tư và sản xuất từ nước ngoài ở khu vực Đông Nam Á. Nhiều tập đoàn điện tử của Nhật Bản và Hàn Quốc, như: Samsung, LG, Olympus và Pioneer cùng các hãng thời trang của Mỹ và châu Âu đều đã có mặt tại Việt Nam. Theo Financial Times, tính đến năm 2017, Việt Nam là nhà xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất trong khu vực và là nhà xuất khẩu hàng điện tử lớn thứ hai chỉ đứng sau Singapore.
Điều quan trọng là tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khá bao trùm. Theo chỉ số phát triển bao trùm của WEF, Việt Nam nằm trong nhóm các nền kinh tế bảo đảm tốt việc tăng trưởng ngày càng bao trùm và bền vững. Các nhà bán lẻ trong nước và quốc tế đang cân nhắc mở rộng kinh doanh tại Việt Nam do sức mua ngày một tăng. Điều này có nghĩa là vào một ngày nào đó, Việt Nam sẽ được biết đến với các trung tâm thương mại lớn và những chiếc ô tô đắt tiền thay vì sự tấp nập của các cửa hàng nhỏ và những chiếc xe máy. Còn hiện tại, Việt Nam đang phát triển với tốc độ và theo cách của riêng mình.
HOÀNG VŨ