Việc làm của một người phụ nữ hằng ngày chỉ quẩn quanh góc bếp, vườn nhà tưởng như rất nhỏ bé nhưng lại là “chìa khóa” thành công cho một chủ trương lớn.
Làm tròn bổn phận cũng là giữ gìn văn hóa
Giữ gìn bản sắc văn hóa của một dân tộc là chuyện lớn, rất hệ trọng, ngay cả khi bản sắc ấy có phần lạc hậu, thiếu hòa nhập trong một xã hội cổ vũ bình quyền nam nữ. Bổn phận làm dâu của người phụ nữ Ơ Đu có nét khắc nghiệt, dù chức phận của họ rất thiêng liêng. Theo phong tục của người Ơ Đu, trong nhà thường có hai bếp: Một bếp dành cho gia đình và một bếp dành cho khách. Khi người chồng tiếp khách, người vợ chỉ được ăn ở bếp dưới. Nếu thoạt nhìn, nhiều người sẽ cho rằng người Ơ Đu “trọng nam, khinh nữ” nhưng thực tế không phải vậy. Người phụ nữ, đặc biệt là con dâu trong gia đình, là người quán xuyến tất cả công việc, từ thu vén cuộc sống cho tới thực hành nghi lễ tín ngưỡng, thờ cúng tổ tiên, ông bà. Vậy ra trọng trách của người con dâu thật lớn.
 |
Vợ chồng chị Mạc Thị Tím trong bộ trang phục Ơ Đu. |
Giống như nhiều thiếu nữ người dân tộc Thái lớn lên ở bản Com (xã Kim Đa, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An) thuở ấy, Mạc Thị Tím (sinh năm 1977) chỉ được học hết trung học cơ sở rồi lấy chồng. Gia đình nhà chồng nghèo, cha mất sớm, mẹ ở vậy nuôi con. Vì cái ăn chưa đủ, cái mặc thiếu thốn nên cuối cùng đám cưới của Tím cũng chỉ rút gọn giản tiện hết mức có thể. Giờ hỏi lại chị Tím cũng không thể tả nổi ngày xuất giá vui nhất cuộc đời ấy như thế nào. Chị chỉ biết, theo phong tục thì còn thiếu nhiều lễ lắm, nhưng hai gia đình vì thương nhau mà không câu nệ. Nhà chồng ngày đó là một trong 5 hộ người Ơ Đu sống trong bản. Ơ Đu trong tiếng Thái nghĩa là “thương lắm”, cái tên ấy cũng nói lên thân phận của họ giữa cộng đồng người Thái. Làm dâu người Ơ Đu là khoác lên chức phận thiêng liêng bảo tồn văn hóa cho tộc người này. Phải thương lắm mới làm được vậy.
Sống giữa tình thương của gia đình chồng, chị Mạc Thị Tím dần dà quán xuyến được công việc. Những nghi lễ thờ cúng tổ tiên ông bà và thủ tục Tết đón tiếng sấm mới chị Tím đều nắm rõ. Việc nào cần làm thì làm, việc nào cần bỏ thì bỏ. Ở xã Kim Đa lúc đó khí hậu mát mẻ, đất tốt, cá nhiều nhưng khó khăn lớn nhất là địa hình hiểm trở, ba bề bốn bên là núi, đường duy nhất nối liền với bên ngoài là đường sông. Thuyền đi lại phải vượt qua nhiều thác ghềnh hiểm trở. Đến năm 2006, nhiều hộ dân trong xã Kim Đa phải di dời để nhường chỗ cho Thủy điện Bản Vẽ, chị thấy đây là cơ hội tốt để thay đổi cuộc sống lạc hậu nên vui vẻ di dời nhà cửa. Lại được biết nơi ở mới sẽ tập trung tất cả hộ người Ơ Đu vào một bản, tiện cho việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc này, chị Tím vô cùng phấn khởi.
Nơi tái định cư là bản Văng Môn, xã Nga My, huyện Tương Dương cách bản cũ chừng 40km. Tại nơi ở mới, chị Tím tích cực tham gia các hoạt động xã hội và được người dân tín nhiệm bầu làm trưởng thôn. Năm 2008, chị vinh dự được kết nạp vào Đảng. Từ đó, mọi việc ngày càng được thuận lợi nhờ có sự tin tưởng của nhân dân và tổ chức đoàn thể. Năm 2013, chị Tím và chồng-anh Lo Văn Xiêng được mời đi dự hội thảo “Tuổi trẻ các dân tộc với việc kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống văn hóa gia đình Việt Nam” tại Hà Nội. Tại hội thảo này, GS, TSKH Tô Ngọc Thanh có phát biểu, đại ý rằng chúng ta đã thực hiện các đề án bảo tồn văn hóa dân tộc Ơ Đu nhưng từ đó đến nay tiến triển rất chậm, có lẽ không lâu nữa dân tộc này sẽ không còn. Dù hồi hộp do chưa bao giờ được dự một sự kiện lớn như thế, nên sau một hồi suy nghĩ, chị Tím giơ tay xin phát biểu. Và trên bục phát biểu của một hội thảo lớn với những chuyên gia và lãnh đạo đầu ngành văn hóa, chị kể về công việc thường ngày của một người vợ trong gia đình người Ơ Đu; những nếp sinh hoạt còn đang giữ gìn được. Ngay sau buổi hội thảo, GS, TSKH Tô Ngọc Thanh tìm gặp riêng chị, ông nói rằng có thể những phát biểu của ông tại hội nghị đã quá lời và ông tin rằng nếu dân tộc Ơ Đu có thêm nhiều nàng dâu như chị Tím, bản sắc văn hóa sẽ giữ được.
Chị Tím nói: “Lúc đó, tôi đâu nghĩ được rằng chỉ làm tròn bổn phận của một cô dâu là giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc Ơ Đu. Nhưng sau này, càng ngẫm lại càng thấy GS Thanh nói đúng, nếu mỗi người phụ nữ trong gia đình Ơ Đu có ý thức giữ gìn thì văn hóa Ơ Đu sẽ không thể mai một”.
Trở thành “chuyên gia” bất đắc dĩ
Những ngày chúng tôi đến thăm bản Văng Môn cũng là lúc cộng đồng người Ơ Đu đón nhận nhiều tin tức tốt đẹp. Đề án của xã Nga My xây nhà truyền thống và nhà thờ tổ dân tộc Ơ Đu đã được UBND huyện thông qua, chỉ nay mai thôi công trình sẽ được khởi công như mong ước của dân làng. Bao đời qua, người Ơ Đu sống tản mát; ngôn ngữ, trang phục, kiến trúc cũng phải vay mượn từ nhiều dân tộc, ước mơ duy nhất của họ là có được nhà thờ tổ như ký ức những người già còn nhớ. Giờ đã được thỏa nguyện, còn gì vui sướng hơn. Nhưng là một người khéo lo toan và biết nhìn xa trông rộng, chị Mạc Thị Tím cho rằng, giữ những công trình không bằng giữ hồn cốt. Hồn cốt ấy được biểu hiện bằng ngôn ngữ, trang phục, kiến trúc; bằng những lễ hội truyền thống và cả nền nếp sinh hoạt, có vậy mới khẳng định được bản sắc của dân tộc. Từ nhiều năm trước, chị Tím đã vận động nhiều phụ nữ trong bản Văng Môn thành lập đội văn nghệ, dưới sự hướng dẫn của GS Cao Đức Hải (Trường Đại học Văn hóa Hà Nội). Đội văn nghệ Văng Môn xây dựng kịch bản tái hiện Lễ hội đón tiếng sấm đầu năm mới của người Ơ Đu. Tiết mục này được đưa đi trình diễn ở nhiều liên hoan, hội diễn văn nghệ và nhận không ít giải thưởng.
Không dừng ở đó, chị Tím cũng đã cất công đi tìm trang phục của người phụ nữ Ơ Đu. Chị kể: “Thực ra, trang phục của phụ nữ Ơ Đu tôi đã từng nhìn thấy. Đó là bộ quần áo của cụ ngoại tôi, người cũng làm dâu trong một gia đình Ơ Đu. Bộ quần áo này trải qua nhiều đời, đến khi tôi biết thì đã bạc màu và cũ nát. Tuy nhiên, qua đó tôi cũng có thể hình dung về cách ăn mặc của phụ nữ Ơ Đu”. Chị tìm hỏi nhiều người, qua ký ức chắp nhặt của những người già, dần dà bộ trang phục được hình thành. Gặp chúng tôi, chị rất vui và đem ra khoe. Chị cũng nói rằng vừa may được bộ áo của đàn ông Ơ Đu tặng chồng. Bộ trang phục nam may theo lời kể của những người qua bên Lào gặp được người Ơ Đu bên đó. Chúng tôi nói vui: “Vậy là chị đã trở thành chuyên gia phục dựng trang phục cổ rồi đấy”. Giọng chị hơi chùng xuống: “Cũng tại người Ơ Đu nghèo khó, lam lũ quá mà trang phục của họ không còn. Tôi nghe kể có thời người Ơ Đu không dám nhận mình là người Ơ Đu, vì tự ti, mặc cảm. Từng có thời gian, người ta gọi người Ơ Đu là Tày Hạt. Tày Hạt trong tiếng Thái có nghĩa là "rách rưới". Đã có thời họ phải hòa nhập triệt để với cộng đồng dân tộc khác để quên đi bản sắc của mình. Cách nghĩ tự ti này hiện nay vẫn còn chứ chưa phải đã hết hẳn đâu”. Thời gian qua, công cuộc vận động người Ơ Đu mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình luôn được chị Tím kiên trì thực hiện. Tất nhiên, để thay đổi một nếp nghĩ...
Chúng tôi được biết thêm, chị Mạc Thị Tím cũng là một “chuyên gia ngôn ngữ”. Hiện tại, người biết tiếng Ơ Đu ở Văng Môn chỉ còn một người, đó là ông Lo Xuân Tình, Bí thư chi bộ bản. Tuy nhiên, ông Tình cũng chỉ nhớ được vài từ đơn giản, như: Ăn cơm, uống nước, cái nhà, cái cửa... mà hoàn toàn không thể dùng để giao tiếp được. Thời gian qua, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nghệ An phối hợp với nhiều cơ quan, đơn vị trong tỉnh tiến hành biên soạn giáo án về ngôn ngữ Ơ Đu, mở một hai lớp dạy, mỗi lớp diễn ra vài ngày. Nhưng thầy giáo rời thôn thì cái chữ cũng theo luôn. Chỉ những ai thật sự yêu thích và quyết tâm học như chị Tím mới còn nhớ. Qua hỏi chuyện chúng tôi nhận thấy người biết được nhiều từ Ơ Đu hơn cả, có lẽ chỉ mỗi chị Tím mà thôi.
Tình thương và trách nhiệm có thể giúp người ta gắn bó và quan tâm hơn, nhưng điều đó lại không thể giúp một dân tộc trưởng thành. Muốn trưởng thành, dân tộc đó phải có những cá nhân biết yêu, biết trân quý những giá trị văn hóa di sản của cha ông. Và phải là một tấm gương lớn mới có thể cuốn hút cộng đồng vào mục tiêu phát huy bản sắc văn hóa ngày một tốt đẹp hơn. Chị Mạc Thị Tím thực là người phụ nữ Ơ Đu đáng trân trọng.
Bài và ảnh: ĐÔNG ANH - VƯƠNG HÀ