Với những cán bộ, giáo viên, học viên khóa I trường Võ bị Trần Quốc Tuấn chúng tôi, tuy 60 năm đã trôi qua nhưng những kỷ niệm về mái trường xưa, về các thầy, các bạn, về những ngày đầu bước vào con đường binh nghiệp cách mạng, rèn luyện gian khổ, nhưng vẫn lạc quan yêu đời của họ, lớp người của Cách mạng tháng Tám ở độ tuổi 20, thì lúc nào cũng còn đầy ắp và tươi rói trong ký ức.

Bác Hồ đã quyết định đặt tên trường thay cho tên trường Võ bị quốc gia Việt Nam mà Bộ Quốc phòng đề nghị với ý định mang tên này,

Kết quả của Khóa I trường Võ bị Trần Quốc Tuấn là một minh chứng hùng hồn cho sự thành công của đường lối đoàn kết toàn dân tộc, của tư tưởng “trồng người” của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.
nhà trường sẽ phát huy truyền thống chống xâm lược của tổ tiên ta trong giảng dạy, rèn luyện và học viên sẽ trở thành những học trò noi gương Trần Quốc Tuấn, vị anh hùng dân tộc đã 3 lần chiến thắng quân Nguyên-Mông, để giữ yên bờ cõi, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn cho nước nhà. Bác Hồ đã thông qua mục tiêu đào tạo, tiêu chuẩn lựa chọn học viên, nội dung, thời gian học tập.

Tuy bận trăm công, ngàn việc, Bác Hồ vẫn về dự lễ khai giảng khóa học. Bác dạy: “Trung với nước, hiếu với dân là một bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta”.

Sau khi đi thăm nước Pháp về, Bác Hồ đã lên thăm trường ngay. Với lời lẽ ân cần, thân tình như cha nói với con: “Sau khi ở Pháp về, nhớ các đồng chí trẻ của mình ở đây, đồng chí già lên thăm ngay và căn dặn anh em mấy điểm: phải kỷ luật, phải quần chúng hóa, phải trọng thực tế, phải ham học, ham làm, phải quyết tâm chịu khó, không lúc nào tự cho mình là đủ, không kiêu, không nịnh, phải đoàn kết, thân ái, tự phê bình và phê bình, phải khuyến khích lẫn nhau”.

Cuối năm 1946, tình hình càng trở nên căng thẳng. Cả nước gấp rút chuẩn bị kháng chiến. Bác Hồ dự kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I vừa kết thúc chiều hôm trước, thì sáng hôm sau ngày 10-11-1946, Người đã lên thăm trường lần thứ ba để kiểm tra, nắm tình hình huấn luyện. Người nhận xét: “Qua thời gian học tập, tư tưởng, tư thế đã được rèn luyện nhiều rồi đấy!”.

Chúng tôi vẫn luôn nhớ và biết ơn sự lãnh đạo đúng đắn của chi bộ Đảng nhà trường, công ơn của các thầy dạy “vỡ lòng” về quân sự, chính trị: các thầy Võ Nguyên Giáp, Hoàng Đạo Thúy, Trần Tử Bình, Bùi Công Trừng, Hoàng Hữu Nam, Vương Thừa Vũ, Phan Phác, Vũ Lập, Đoản Tòng, Nguyễn Viết Huân, Lê Xuân Hoành... đã bồi dưỡng thêm cho chúng tôi lòng yêu nước, chí căm thù giặc, đã khắc phục bao khó khăn về nội dung, về thiết bị để trang bị cho họ những kiến thức ban đầu về chính trị, về công tác chính trị, về kỹ chiến thuật... đã thiết thực giúp chúng tôi vận dụng trong thực tế công tác và chiến đấu trên các chiến trường cũng như ở các đơn vị phía sau trong suốt cuộc đời cách mạng.

Cuối tháng 11-1946, một không khí sôi sục trong cán bộ, học viên xin sớm kết thúc khóa học để ra đơn vị sẵn sàng chiến đấu khi quân Pháp đã gây hấn nhiều ở Hà Nội, Hải Phòng... Tuy vậy, cấp trên vẫn kiên quyết duy trì khóa học cho hết chương trình, có thi tốt nghiệp và làm lễ bế mạc đàng hoàng vào sáng ngày 8-12-1946. Và ngay tối ngày hôm đó, 282 cán bộ quân đội học “Khóa học đầu tiên của trường quân sự đầu tiên theo khuôn phép nhà binh chính quy của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (lời Chủ tịch Hồ Chí Minh), tỏa ra khắp các nẻo đường kháng chiến, là một trong số các hạt giống quý thuở ban đầu để nhân lên thành sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam, làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” và Mùa xuân toàn thắng 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngày nào, các giáo viên, cán bộ, học viên mà tuyệt đại đa số là những thanh niên phơi phới tuổi 20, đầy sức sống giàu lòng yêu nước, có kiến thức, chưa quen với thiếu thốn gian khổ, đã “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” dù chỉ qua một thời gian rèn luyện không dài ở khóa 1 trường võ bị Trần Quốc Tuấn đã dũng cảm quên mình, dấn thân vào cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian khổ, nguy hiểm ngay từ những ngày đầu kháng chiến toàn quốc cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn và cho đến ngày nay.

282 cán bộ quân đội học “Khóa học đầu tiên của trường quân sự đầu tiên theo khuôn phép nhà binh chính quy của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (lời Chủ tịch Hồ Chí Minh), tỏa ra khắp các nẻo đường kháng chiến, là một trong số các hạt giống quý thuở ban đầu để nhân lên thành sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam
Trong đội ngũ của chúng tôi, gần 40% đã hy sinh cho Tổ quốc. Mỗi trường hợp hy sinh là một gương về lòng dũng cảm, tinh thần xả thân vì nghĩa cả, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Phạm Ngọc Thảo xuất thân từ một gia đình địa chủ giàu nhất, nhì Nam Bộ, dân công giáo. Anh vào làng Tây được phái vào hoạt động tình báo trong hàng ngũ địch, đã dũng cảm, vững vàng, khôn khéo hoạt động, được ngụy quyền phong quân hàm đại tá, được mệnh danh là “Vua đảo chính” khiến kẻ thù phải kính nể. Nguyễn Kim Tuấn, một tiểu tư sản học sinh, gia đình khá giả, phải lấy tên và giấy khai sinh, bằng cấp của anh ruột để được đủ tuổi vào trường, đã anh dũng hy sinh khi làm nhiệm vụ quốc tế ở đất nước chùa Tháp ở cương vị Thiếu tướng Quân đoàn trưởng. Cả hai anh đều đã được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Được lựa chọn theo các tiêu chuẩn mà Bác Hồ đã chỉ ra, được sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng và quân đội, chúng tôi đã phấn đấu vươn lên tự khẳng định mình và đến nay, người còn, người khuất, không hề hổ thẹn với lời thề “Trung Hiếu” năm xưa, nhiều người đã trưởng thành vượt bậc trong khói lửa chiến tranh, trở thành những tướng lĩnh tài ba (1 thượng tướng, 6 trung tướng, 4 thiếu tướng). Đa số là sĩ quan cao cấp trong Quân đội nhân dân. Nhiều đồng chí được phong hàm giáo sư, phó giáo sư, nhà giáo ưu tú... Những đồng chí chuyển ra công tác ngoài quân đội cũng được giao và hoàn thành các trọng trách trong các ngành kinh tế, văn hóa, khoa học-kỹ thuật, ngoại giao, công tác Đảng...

Càng suy ngẫm, càng thấy sự sáng suốt của Bác Hồ vĩ đại, vô vàn kính yêu. Kết quả của Khóa I trường Võ bị Trần Quốc Tuấn là một minh chứng hùng hồn cho sự thành công của đường lối đoàn kết toàn dân tộc, của tư tưởng “trồng người” của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.