 |
Thị xã Đông Hà (Quảng Trị) hôm nay |
1- Huyền thoại
Về với chiến trường xưa, về với “cõi thiêng” sông núi, đứng trên đất Quảng Trị sẽ dễ dàng tìm thấy cội nguồn tình cảm và sức mạnh niềm tin vào đất nước đổi mới. Từ đó, ai nấy sẽ sống tốt hơn, thân thiện hơn trong thế giới hòa bình, hữu nghị và phát triển.
Đã hơn một lần tôi về thăm Quảng Trị-mảnh đất huyền thoại trong các cuộc chiến tranh vệ quốc; được lịch sử đặt vào vị trí đầy nhạy cảm trên hình hài đất nước. Ở vị trí này, nếu coi Việt Nam dọc dài như chiếc đòn gánh thì lịch sử chọn đặt trên bờ vai Quảng Trị. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, chiếc đòn gánh oằn lưng, trĩu nặng hai đầu, luôn luôn vồng lên trên đôi vai gầy của vùng đất thiêng Quảng Trị.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trải qua 21 năm (1954-1975), là trang sử vàng chói lọi của lịch sử, dân tộc. Công sức, trí tuệ, xương máu của cả nước mà mỗi vùng đất đều tự hào đã đóng góp làm nên chiến công chung đó. Một trong những vùng đất đặc trưng, tiêu biểu cho cuộc chiến đấu thiêng liêng, hào hùng này, là tỉnh Quảng Trị. Xương máu hàng mấy chục vạn người con ưu tú của mọi miền Tổ quốc và của Quảng Trị thấm đẫm trên mảnh đất này. Tinh thần chiến đấu, hy sinh của đồng bào, chiến sĩ ta đã kết thành hồn thiêng sông núi, hòa trong mỗi tên đất, tên làng của 10 huyện, thị xã Quảng Trị, trở thành những pháo đài, kiên cường chống giặc.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: “... Quảng Trị là một trong những chiến trường khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là nơi chứng kiến nỗi đau chia cắt của đất nước ròng rã 20 năm...”.
Và nỗi đau chia cắt đó, lưỡi dao rạch đúng trên cơ thể của Quảng Trị-sông Bến Hải, cầu Hiền Lương. Sự tàn phá, đau thương của cuộc chiến, không nơi nào bị mất mát, tổn thất lớn lao như ở đây. Nhân loại tiến bộ phải kinh ngạc, xót xa trước những con số hủy diệt cuộc sống bằng bom đạn của Mỹ-ngụy đối với Quảng Trị: Nhà cửa, đường sá, cầu cống, đình chùa, chợ búa của bảy huyện, hai thị xã bị san phẳng; ruộng, rừng, vườn tược bị cày xới, thiêu trụi. Ở Vĩnh Linh và nhiều nơi khác trong tỉnh, mỗi người bình quân phải chịu đựng 7 tấn bom đạn của kẻ thù; và cứ năm người thì có một người chết hoặc bị thương. Chiến tranh đã qua đi nhưng tính đến nay, vẫn có hơn 7.000 người chết hoặc bị sát thương vì bom mìn và 15.481 người bị nhiễm chất độc da cam/đi-ô-xin. Không có nơi nào, tỷ lệ người tàn tật cao, trên 5% dân số (hơn ba vạn người) như Quảng Trị. Báo chí phương Tây từng viết: Nơi đây bị hủy diệt lên tới 200% và “phải đi lên từ số âm”.
Trên vùng đất oanh liệt này, đi đến đâu, đứng lại ở đâu, chúng tôi cũng gặp mộ liệt sĩ. Gần 6 vạn người con ưu tú đang yên nghỉ tại 72 nghĩa trang của các xã, các huyện; của tỉnh và của quốc gia. Đất Quảng Trị bạt ngàn mộ trắng trong những nghĩa trang. Ấy là chưa kể bao nhiêu đồng bào, chiến sĩ còn đang nằm trong lòng đất, chưa thể quy tập được.
Hiện nay ở tỉnh Quảng Trị, 100% các huyện, thị và 130 xã, phường, đơn vị cùng 57 cá nhân đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng. Trong công tích chung đó, có phần đóng góp trực tiếp của cả nước. Từ những hạt gạo, viên thuốc, quân trang, quân dụng đến những khẩu súng, viên đạn, trí tuệ, xương máu để làm nên chiến thắng, là sức mạnh tổng hợp của dân tộc. Vì vậy, Quảng Trị là địa danh một địa phương đã trở thành biểu tượng chung về một cuộc chiến vĩ đại nhất; là niềm tự hào về thời oanh liệt chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Ròng rã hơn 20 năm diễn ra cuộc đụng đầu lịch sử giữa hai chế độ chính trị, hai hệ tư tưởng, đã để lại ở vùng đất tuyến lửa Quảng Trị một hệ thống di tích chiến tranh cách mạng đồ sộ và độc đáo với hàng nghìn địa danh ghi dấu những sự kiện oanh liệt, hào hùng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Tại đây, trong số 498 di tích thì có tới 431 di tích lịch sử chiến tranh cách mạng; tiêu biểu phải kể tới các di tích: Địa đạo Vịnh Mốc, cầu Hiền Lương-đôi bờ Bến Hải, hàng rào điện tử Mắc-na-ma-ra, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Thành cổ Quảng Trị, Đường 9-Khe Sanh, sân bay Tà Cơn, đảo Cồn Cỏ, đường Hồ Chí Minh huyền thoại, nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn và Đường 9...
Các di tích lịch sử đều gắn với những chiến công hiển hách của các đơn vị quân đội và nhân dân trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Vì vậy, có thể nói, Quảng Trị là một bảo tàng sinh động nhất về di tích chiến tranh cách mạng; là cõi thiêng của những con người hướng thiện. Nơi đây, có khi chỉ là một địa chỉ, một gốc cây, một ngõ xóm, một bìa rừng... nhưng đã trở thành điểm đến, có sức thu hút kỳ lạ đối với mọi người. Tôi được biết, ở phía tây huyện Gio Linh, có một gốc đa cành lá sum suê. Trong trận chiến đấu chống càn, một chiến sĩ Quân giải phóng bị địch bắt. Chúng trói anh vào gốc đa và bắn chết bằng nhiều phát đạn. Khi địch rút đi, nhân dân đã chạy tới gỡ thi thể anh ra, nhặt từng miếng thịt bị đạn găm vào thân cây để làm lễ mai táng trọng thể. Từ ấy, gốc đa trở nên thiêng liêng. Đến ngày giỗ liệt sĩ, cả làng tới đây thắp hương tưởng niệm. Trong lịch sử văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, có một liệt sĩ cách mạng trở thành Thần Hoàng của một làng quê Quảng Trị.
Lại nữa, Cồn Cỏ là một đảo nhỏ, đã hai lần được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng. Tại đây, có câu chuyện như huyền thoại về người chiến sĩ trẻ, bị thương đứt 7 đoạn ruột vẫn bò xuyên đảo, vẫn chiến đấu với địch và được cứu sống trong vòng tay đồng đội.
Địa đạo Vịnh Mốc là một trong những công trình quân sự độc đáo còn lại sau cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đến với địa đạo Vịnh Mốc cũng là đến với một “huyền thoại” trong cuộc sống đời thực. Sức mạnh ý chí và nghị lực của con người Việt Nam, của người dân Vịnh Mốc đã biến những điều không tưởng thành hiện thực sinh động. Họ đào địa đạo vào sâu trong lòng đất thành làng, xóm; tổ chức cuộc sống ổn định qua nhiều năm để vừa sản xuất hăng, vừa chiến đấu giỏi, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chi viện cho miền Nam và các chiến sĩ ngoài đảo Cồn Cỏ. Để có công trình kỳ vĩ này, nhân dân Vịnh Mốc đã tốn nhiều mồ hôi, công sức, xương máu; gửi gắm vào đó tất cả trái tim, khối óc của mình. Một dân tộc với ý chí kiên cường, sắt đá như vậy sẽ không chịu khuất phục trước bất kỳ kẻ thù xâm lược nào dù có sức mạnh quân sự và tiềm lực kinh tế lớn gấp nhiều lần. Một cựu chiến binh Mỹ đến thăm Vịnh Mốc đã thốt lên: “Quả là một lâu đài dưới lòng đất. Ở đó ẩn giấu biết bao điều kỳ diệu. Ở đó chính là câu trả lời tồn tại hay không tồn tại”.
Các di tích chiến đấu ở Quảng Trị là vô giá; nó được kết tinh bằng xương máu của nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta. Đó là vóc dáng, là linh hồn, tượng trưng cho lòng kiên trung, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Vì lẽ đó, giá trị tài nguyên, di tích lịch sử chiến tranh cách mạng ở Quảng Trị nằm ở chiều sâu đạo lý; nằm ở tầm cao lương tri.
Tiến sĩ Nguyễn Viết Chức có nhận xét sâu sắc rằng, chính tại nơi đây, ta được hiểu biết rất nhiều so với điều đã biết về quá khứ. Và cũng chính tại nơi đây, giúp ta nhận ra chân giá trị của hiện tại và hình dung rõ ràng về tương lai. Hơn nữa, về với chiến trường xưa, về với “cõi thiêng sông núi”, đứng trên đất Quảng Trị sẽ giúp ta dễ dàng tìm thấy cội nguồn tình cảm và sức mạnh niềm tin vào đất nước đổi mới. Từ đó, ai nấy sẽ sống tốt hơn, thân thiện hơn trong thế giới hòa bình, hữu nghị và phát triển...
(Còn nữa)
Bài và ảnh: CHI PHAN