 |
Chi đội Nam tiến đầu tiên lên đường ngày 20-9-1945. Ảnh tư liệu |
3 giờ sáng ngày
23-9-1945, chỉ ba tuần sau ngày nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời, thực dân Pháp gây hấn ở Sài Gòn. Ngày 26 tháng 9, Cụ Hồ tha thiết nói lên tấm lòng của cả nước với Nam Bộ: “
Tôi chắc đồng bào Nam Bộ cũng tin rằng Chính phủ và đồng bào toàn quốc sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà…”.
Những đoàn quân Nam tiến đã lên đường chi viện cho Nam Bộ. Đó là học viên vừa tốt nghiệp các trường quân chính, là tân binh khắp các tỉnh, thành phố Bắc Bộ, Trung Bộ nô nức nhập ngũ. Có cả những cựu binh sĩ người Việt từ Vân Nam, Thượng Hải, từ Pháp… về thăm Tổ quốc vừa giành được độc lập, đã lại xung trận để “bảo tồn sông núi”. Ngày 10-11-1945, hơn 300 viên chức Hà Nội, gồm cả những bậc ngoại ngũ tuần vẫn đầu quân Nam tiến. Các đơn vị Giải phóng quân từng lập công trên Khu giải phóng Việt Bắc, nay lại chiến đấu lừng danh ở mặt trận Lục tỉnh, như chi đội Nam Long.
Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp, trong diễn văn nhân dịp đầu năm dương lịch 1946, đã nhận định như sau về vai trò đoàn quân Nam tiến: “Các đơn vị Nam tiến đã góp phần công lao lớn vào công cuộc tranh thủ độc lập và thống nhất Tổ quốc”.
Nhiều phong trào ủng hộ Nam Bộ được phát động, mở đầu là Tuần văn hóa ở Thủ đô Hà Nội (từ ngày 7 đến ngày 14-10-1945). Ngày 17-10-1945, phụ nữ cứu quốc các thành phố miền Bắc tổ chức quyên góp tiền và quần áo cho đồng bào Nam Bộ. Chính phủ chủ trì việc kỷ niệm Lễ Hạnh nguyên 17-10, nhằm kêu gọi lương giáo đoàn kết, ủng hộ Nam Bộ. Nhân dân Hà Nội nô nức biểu tình, tuần hành, tay đeo băng có đề “Quyết kháng chiến”, như tổ tiên từng khắc lên vai hai chữ “Sát thát”. Các địa phương và cả kiều bào ở nước ngoài (như ở Thà-khẹt, Sa-va-na-khẹt…) đã thành lập các Ủy ban Ủng hộ Nam Bộ. Ngày 5-11-1945, ông Võ Nguyên Giáp phát biểu: “Tôi xin thay mặt Chính phủ nói cho quốc dân biết: sự tiếp viện cho Nam Bộ là một trong những công việc quan trọng bậc nhất của Chính phủ, nó bao quát mọi mặt: nhân lực và vật lực, chính trị và quân sự. Ngay từ 23-9, Chính phủ đã có những chỉ thị rõ ràng về chính trị và quân sự cho Ủy ban Nam Bộ. Rồi từ đó đến giờ, sự liên lạc ngày càng mật thiết, sự tiếp viện ngày càng gia tăng…” (Báo Cứu quốc số ra 6-11-1945).
Trong lời hiệu triệu “Ủng hộ cuộc kháng chiến ở Nam Bộ” ngày 17-1-1946, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp lại nhấn mạnh: “Nói tóm lại, công cuộc chuẩn bị trường kỳ kháng chiến và tiếp viện miền Nam là công việc trọng tâm trong lúc này của Chính phủ và toàn dân. Đồng bào chúng ta phải dốc toàn lực vào đó. Hy sinh hết thảy vì kháng chiến. Hy sinh hết thảy vì miền Nam”.
Ngay ngày hôm sau, 18 tháng Giêng, Võ Nguyên Giáp đi công cán Nam Bộ. Lên đường, ông Giáp còn mang theo lời thăm hỏi của Cụ Hồ tới đồng bào và chiến sĩ miền Nam, cùng lời dặn dò mọi người luôn nêu cao cảnh giác, giữ bí mật. Báo Cứu quốc số ra 28-2-1946 đăng bài nói của Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp về chuyến đi trên, có đoạn: “Mấy tháng nay, dọc con đường vào Nam, các ủy ban hành chính và các đoàn thể cứu quốc hết sức bận rộn với việc đón tiếp và giúp đỡ bộ đội Nam tiến. Đến gần Nha Trang, tôi hỏi bản danh sách của bộ đội. Tôi đọc qua cột biên quê quán các chiến sĩ, thấy hết Nam Định, Ninh Bình, Thái Nguyên, … lại đến Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Yên, Cao Bằng v.v.. Tám phần mười bộ đội là ở ngoài này phái vào. Sự cống hiến bằng xương và máu của đất Bắc đối với công cuộc kháng chiến miền Nam thực không phải là ít. Dọc đường, tôi đã gặp hầu hết các đội Nam tiến, thấy tinh thần hăng hái của các chiến sĩ, tôi rất cảm phục và cũng có ái ngại cho nên dặn dò cặn kẽ…
Có phải mặt trận nào cấp dưỡng cũng đầy đủ như ở Nha Trang đâu? Nhiều nơi vì điều kiện vận tải quá khó khăn, thiếu cả thức ăn, phải ăn cơm với muối; có nơi đi đánh rất xa, mà không có vải may túi lương khô, không có bi đông đựng nước, đêm khuya lạnh, nằm đất ăn sương mà chỉ có một tấm áo đơn và một cái quần ngắn. Rồi trong các bệnh viện thì thiếu màn, thiếu chăn, sự săn sóc của các bác sĩ, y tá, các nữ cứu thương thì có thừa, nhưng thuốc thang thì không đủ…
Còn về quân sự ở miền Nam, ta phạm vào một khuyết điểm về chiến thuật. Tôi muốn nói rằng: từ trước đến giờ, chúng ta vẫn kêu lên là chúng ta đánh du kích, nhưng kỳ thực ở Nam, chúng ta chưa hề đánh du kích, hay là mới bắt đầu đánh du kích. Hai trận lớn nhất là trận Sài Gòn-Chợ Lớn và trận Nha Trang đều là trận địa chiến. Ở Buôn Ma Thuột trên con đường đi Ninh Hòa, quân ta cũng chỉ dùng toàn trận địa chiến mà chống lại quân địch. Cố nhiên, có khi ta đánh chiến thuật trận địa, nhưng đó chỉ là phụ, bao giờ ta cũng phải bố trí và thực hiện chiến thuật du kích mới có thể đi đến thắng lợi. Chúng ta phải giữ gìn thực lực, phải luôn luôn quấy rối quân thù, phải kiếm cách tiêu diệt từng bộ phận nhỏ của chúng, phải cướp lấy khí giới súng đạn của chúng, phải làm thế nào càng đánh ta càng mạnh, và nhất là phải chủ trương bồi dưỡng lực lượng chứ không cố thủ thành trì đất đai”.
Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp đang chuẩn bị đi tiếp vào Nam Bộ thì có điện của Cụ Hồ gọi ra Bắc gấp. Tới Quy Nhơn, Bộ trưởng rẽ lên thăm mặt trận Tây Nguyên. Lên tới Plei-ku, ông Võ Nguyên Giáp gặp lại Đức Thanh, người thanh niên đầy dũng khí của núi rừng Pác Bó từng được Hồ Chí Minh trực tiếp dạy dỗ. Đó là lần gặp cuối cùng. Chỉ ít lâu sau, bà con các dân tộc miền núi Tây Nguyên ngậm ngùi đưa Đức Thanh về nơi an nghỉ vĩnh hằng. Như Hoàng Đình Giong, như Đàm Minh Viễn, như bao nhiêu người con đất Việt từ ấy về sau sẽ bỏ mình trong tranh đấu cho “Bắc-Nam sum họp”.
Đầu tháng 3-1946, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập. Cụ Huỳnh Thúc Kháng, thủ trưởng cũ của Võ Nguyên Giáp thời làm báo “Tiếng dân” cuối những năm 20, được cử làm Bộ trưởng Nội vụ. Ông Võ Nguyên Giáp được bổ nhiệm làm Chủ tịch Toàn quốc Kháng chiến ủy viên hội (gọi tắt là Quân ủy hội). Chức vụ này sẽ tạo điều kiện hơn cho ông Võ Nguyên Giáp trong chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, cũng như việc chuẩn bị cho toàn dân, toàn diện kháng chiến theo chỉ thị của Trung ương.
Tuy nhiên, dù Hiệp định sơ bộ 6-3 quy định phải đình chiến ở miền Nam, quân Pháp vẫn tiếp tục gây hấn. Ông Võ Nguyên Giáp được giao phụ trách phái đoàn đàm phán với Pháp tại Đà Lạt, cuộc gặp nhằm mở đường cho hội nghị Phông-ten-nơ-blô. Đây là một nỗ lực lớn nữa của Cụ Hồ nhằm tránh cho hai dân tộc Pháp-Việt khỏi một phen huyết chiến.
Tại Hội nghị Đà Lạt, trong phiên họp 3-5-1946, Võ Nguyên Giáp khẩn thiết kêu gọi: “… Ký hiệp định 6-3-1946 đã được hai tháng rồi mà vẫn chưa đình chiến ở Nam Bộ; nhiều võ quan cao cấp của Pháp cũng đã công nhận nên đình chiến ngay. Cuộc chiến tranh ở Nam Bộ phải đình chỉ ngay. Không phải bằng cách tiếp tục những cuộc tiễu trừ mà người ta có thể khuất phục được quân đội Việt Nam ở Nam Bộ. Quân lính Việt Nam đã từng chiến đấu trong những trường hợp khó khăn hơn thế để giải phóng đất nước, thì nhất định chỉ nhận cuộc ngừng chiến trong công lý, trong danh dự. Nếu người Pháp không dùng những phương pháp thẳng thắn để đình chiến thì nhất định không bao giờ nhân dân Việt Nam ở Nam Bộ chịu khuất phục… Tôi lớn tiếng nói ở đây như vậy và tôi có bằng chứng. Lịch sử sẽ cãi cho chúng tôi”. (Báo Cứu quốc, 6-5-1946).
Khắc họa hình tượng Võ Nguyên Giáp trong đàm phán, ký giả Pháp Jean Lacouture từng viết: “Nói về độc lập như một yêu cầu tối hậu, Giáp nhấn mạnh: “Chúng tôi sẽ không cho phép mình dừng bước bởi mọi hy sinh, bạo lực hay tàn phá” … Nhưng Giáp biết cách tiết chế lời lẽ của mình. Và trong suốt tiến trình đàm phán luôn tìm kiếm sự hiểu biết lẫn nhau từ phía Pháp… Chính Giáp đã gợi ý tôi (Jean Lacouture) dùng thuật ngữ “sự bất đồng ý kiến trong hữu nghị” (le déssacord cordial) để mô tả Hội nghị Đà Lạt. Năng lực chính khách cũng như chính kiến không khoan nhượng của ông thấm nhuần trong từng câu”.
Thành viên của phái đoàn Việt Nam thời đó, giáo sư Hoàng Xuân Hãn, nói về Võ Nguyên Giáp như sau, trong một bài báo viết tại Pa-ri năm 1972: “Lần này (tại hội nghị Đà Lạt) là lần đầu tiên tôi biết cá nhân Võ Nguyên Giáp. Trái với lời đồn là róng riết (khắt khe, cứng nhắc), Giáp đã tỏ thái độ nhã nhặn, có tình cảm nhiều, nhưng ý tưởng thì cương quyết. Trong ba tuần làm việc cùng nhau… tôi đã nhìn thấy rõ cái bản lệnh (bản lĩnh) đặc biệt của nhà cách mạng trẻ tuổi này”. (Một vài kế vãng về Hội nghị Đà Lạt, Tập san Sử Địa xuất bản tại Sài Gòn trước năm 1975, số 23-24).
Nhưng do phía Pháp cố tình nuôi dã tâm cướp nước, hội nghị Đà Lạt bế tắc. Trong phiên họp cuối cùng hôm 11-5, Võ Nguyên Giáp cảnh cáo bọn thực dân: “… Nếu chẳng may Nam Bộ bị cắt rời ra khỏi Việt Nam thì trái tim của toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ thôi ngậm ngùi than khóc cho số phận Nam Bộ và tất cả nghị lực của dân tộc Việt Nam sẽ hướng cả vào tranh đấu để giành Nam Bộ về với khối Việt Nam thống nhất”. (Báo Cứu quốc, 16-5-1946).
Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 đã tạo điều kiện cho Nam Bộ củng cố lực lượng và tổ chức. Các chiến khu 7, 8, 9 đã hình thành, phù hợp với điều kiện địa lý chia cắt bởi các con sông lớn. Tháng 6-1946, thành lập trở lại Xứ ủy Nam Kỳ (lâm thời), đồng chí Phạm Hùng được bầu làm Bí thư. Nhờ đó, Ủy ban Kháng chiến-Hành chính Nam Bộ được củng cố ở các cấp. Nam Bộ cùng cả nước có thời gian chuẩn bị kháng chiến theo phương thức chiến tranh nhân dân.
Ngày 23-9-1946, kỷ niệm một năm ngày Nam Bộ kháng chiến, Chính phủ và đồng bào Bắc Trung Bộ cùng nhịn một bữa ăn để ủng hộ kháng chiến ở Nam Bộ. Hạ tuần tháng 9-1946, Nhật lệnh của Chủ tịch Quân ủy hội Võ Nguyên Giáp vào tới miền Nam, làm nức lòng tướng sĩ: “Nhân danh Chủ tịch quân sự Ủy viên hội, tôi xin tuyên bố các chiến sĩ miền Nam xứng đáng với Tổ quốc, và hạ lệnh:
1) Càng phải ghép chặt hàng ngũ lại, trong bộ đội cũng như giữa bộ đội và dân chúng.
2) Bao giờ cũng tôn trọng tín nghĩa, đồng thời bao giờ cũng kiên quyết bảo toàn danh dự quân sự cho bộ đội và bảo vệ quyền lợi cho dân chúng.
3) Phục tùng thượng lệnh, tuân theo kỷ luật.
Các đồng chí phải làm đúng những điều đó để giữ vững hàng ngũ Vệ quốc quân miền Nam, để bảo vệ dân chúng miền Nam, để đảm bảo sự thống nhất lãnh thổ và bảo vệ chính quyền”. (Báo Cứu quốc, 23-9-1946).
Ngày 14-9-1946, tại Pa-ri, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Tạm ước Việt-Pháp nhằm hòa hoãn thêm một thời gian nữa. Thể hiện thiện chí của Chính phủ Việt Nam, Chủ tịch Quân ủy hội Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị cho quân và dân miền Nam:
“1) Lập tức đình chiến từ ngày 30 tháng 10, bắt đầu từ 0 giờ.
2) Giữ bí mật vị trí của ta và cẩn mật đề phòng.
3) Kiên quyết tự vệ đến cùng để bảo vệ dân chúng, bảo vệ cơ quan hành chính, bảo vệ vị trí, phạm vi và danh dự, nếu xảy ra trường hợp bị tấn công; nhưng tuyệt đối tránh sự khiêu khích”.
Đúng thời hạn trên, hai bên thực hiện ngừng bắn. Nhưng sau đó giặc Pháp lật lọng, tiếp tục khủng bố, tàn sát dân lành. Pa-ri vẫn ồ ạt đưa quân tiếp viện sang. Nhờ đề phòng từ trước, quân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đã chủ động phục kích, đánh chặn quân địch lấn chiếm. Đã hình thành thế giằng co trên chiến trường miền Nam. Địch gần như mất hẳn vùng nông thôn và bị cô lập trong các đô thị.
Chín tháng sau ngày thực dân Pháp trở lại gây chiến ở Nam Bộ, phong trào du kích chiến tranh ngày càng vững mạnh nhất là ở ba khu 7, 8, 9. Địch thất bại trong nỗ lực đánh chiếm Chiến khu Đồng Tháp Mười (hình thành từ tháng 7-1946). Các tiểu khu du kích ở khu 9 được củng cố, đảm bảo đường vận chuyển vũ khí tới các bến ở Rạch Giá, Cà Mau. Trong hậu địch, mạng lưới hoạt động bí mật hình thành. Hầu hết các tỉnh đều thành lập Ty giao thông liên lạc (giao liên) để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền cách mạng. Chỉ ba năm sau, năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh, khen tặng Ngành giao liên Nam Bộ huân chương Kháng chiến hạng nhất.
Từ ngày 23-9-1945 đến ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), Nam Bộ và Nam Trung Bộ đã đi đầu kháng chiến chống Pháp. Chỉ bằng gậy tầm vông, giáo mác và số ít súng, quân dân miền Nam đã anh dũng, mưu trí làm theo lời Bác dặn, xây dựng phong trào du kích, kìm chân một quân đội nhà nghề, thiện chiến, trang bị tối tân, tạo điều kiện cho cả nước chuẩn bị kháng chiến trường kỳ. Cũng từ đó, dưới cờ Đảng, quân và dân miền Nam đã bền gan chiến đấu, cùng cả nước trường chinh “đánh thắng hai đế quốc to”.
ĐỖ HUY (Biên soạn)