 |
|
Thanh niên Hà Nội đi theo tiếng gọi kháng chiến |
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện long trời lở đất, tạo bước ngoặt trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Giành lại độc lập sau 80 năm bị đô hộ, đất nước Việt Nam đã lần đầu tiên ghi tên mình trên bản đồ thế giới, để rồi hôm nay trở thành một cái tên gợi niềm tự hào, sự mến phục trong lòng bạn bè quốc tế. Năm tháng càng qua đi, những giá trị tinh thần và lịch sử của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam độc lập ngày 2-9-1945 càng trở nên rõ nét. Xin được trở lại không khí của những ngày này 60 năm về trước qua sự quan sát, mô tả của viên tướng người Anh Pi-tơ Mắc Đô-nan trong một ấn phẩm được Nhà xuất bản Fourth Estate phát hành lần đầu năm 1993. (Đương nhiên các chi tiết trong bài là của Mắc Đô-nan).
... Ngày 25-8-1945, theo lệnh Cụ Hồ, tướng Võ Nguyên Giáp đưa quân về Hà Nội. Cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi và trong vòng 10 ngày chế độ thực dân cùng tàn dư phong kiến đã chấm dứt. Cuộc cách mạng bùng lên như một cơn lốc. Chỉ trong vài ngày, sự nhục nhã và nỗi khổ đau của kiếp nô lệ đã bị cuốn sạch. Sự hồi sinh thật phi thường. Hôm qua, thành phố còn tê liệt vì nạn đói, bệnh dịch và nỗi kinh hoàng, còn hôm nay cuộc sống đã hồi sinh trên từng ngõ phố. Bao trùm là bầu không khí trong sạch và phấn chấn. Cờ đỏ sao vàng tràn ngập phố phường. Cách mạng thực sự là ngày hội cho những người bị áp bức.
Đối với Việt minh, điều quan trọng lúc này là phải lấp khoảng trống về chính quyền và đưa Việt minh lên thành một Chính phủ hợp pháp trước khi Nhật hoặc Đồng minh có thời gian phản ứng.
Sau khi bố trí lực lượng, tướng Giáp được đưa về một cơ sở ở phố Hàng Ngang (Hà Nội). Tại đây, ông biết là Cụ Hồ đang trên đường về dưới sự hộ tống của phân đội Quang Trung. Ngày hôm sau, 29-8, Cụ Hồ đã giành lại được nước Việt Nam và thành lập chính quyền đầu tiên. Để thu hút được nhiều tổ chức, dân tộc khác nhau và kiểm soát được họ, Cụ Hồ đã thu nhận cả những nhân vật phi mác-xít, những nhân vật độc lập và Thiên chúa giáo.
 |
|
Sĩ quan Ac-si-mét Pát-ti (bên trái) và tướng Võ Nguyên Giáp, năm 1945 |
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Cụ xuất hiện lần đầu tiên trước quốc dân đồng bào như một vị lãnh tụ vĩ đại: một ông già trán cao, mắt sáng, râu dài, đầu đội chiếc mũ đã cũ, trên mình là bộ kaki cổ cao, chân đi dép cao su trắng. Cụ Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập và đã trích câu “Mọi người sinh ra đều có quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc” - câu này Cụ đã đề nghị một người trong tổ chức OSS viết ra trên một mẩu giấy. Tiếp đó là bài phát biểu dài của tướng Giáp. Ông nói về kinh tế, chính trị và các vấn đề khác, rồi nói đến vấn đề đối ngoại với lời nhấn mạnh rằng trong tương lai, quan hệ Việt Nam với Trung Quốc và Mỹ sẽ gắn bó và hy vọng Mỹ sẽ là “một người bạn tốt của Việt Nam”.
Ngày 7-9, Cụ Hồ đổi tên Việt Nam Giải phóng quân thành Quân đội nhân dân và tuyên bố thành lập Bộ Tổng tham mưu gồm những sĩ quan tinh hoa để nắm quân đội. Đó là một đội quân “thống nhất, bí mật, nhanh nhạy, chính xác, chớp nhoáng để đánh bại mọi kẻ thù”. Ngày 8-9, cơ quan giáo dục quần chúng quốc gia được hình thành như một ưu tiên thứ hai để bảo đảm giáo dục tổng hợp, đồng thời như một công cụ để thu phục nhân tâm trên toàn quốc. Trong vài tháng sau đó, Chính phủ của Cụ Hồ Chí Minh đã bắt đầu thực hiện luật pháp, xây dựng lực lượng cảnh sát, thực hiện công bằng xã hội và đặt cơ sở cho việc phát triển quân đội. Muốn thống nhất tất cả các thành phần xã hội, Cụ Hồ đã cho người miền núi có chân trong Quốc hội và đưa hàng nghìn người về huấn luyện thành giáo viên, bác sĩ và cán bộ chính trị.
Trong khi đó, ngày 9-9, 152.000 quân thuộc lực lượng Quốc dân đảng dưới quyền tướng Lư Hán đã tiến về Hà Nội. Sự có mặt của đội quân đông đảo này đã làm cho nạn thiếu lương thực trở nên trầm trọng hơn. Cũng vào thời điểm đó, quân Anh nhanh chóng tiến vào Sài Gòn-đây là bộ phận thứ 12 của sư đoàn Ấn Độ dưới quyền tướng Đu-glớt Gra-xây. Thật không may, dường như vị tướng này có cảm tình với ý định của người Pháp muốn tái thiết lập đế chế của họ. Giá như ông ta có thái độ cởi mở hơn và khách quan hơn, sự việc có thể đã diễn ra khác đi. Lệnh của Tư lệnh tối cao các lực lượng Anh ở Đông Nam Á Mông-bát-ten là Gra-xây phải giải giáp quân Nhật, duy trì trật tự, giữ thái độ trung lập và không được tái lập chủ quyền của Pháp. Nhưng do sức ép của Thống đốc Pháp ở Nam Kỳ Xê-đin, Gra-xây đã không thực hiện được những mệnh lệnh này. Áp đặt lệnh thiết quân luật và sau đó thấy không đủ lực lượng để thực hiện nó, ông ta vũ trang cho 1.500 quân Pháp thuộc trung đoàn bộ binh số 11 đã bị Nhật giam giữ và sử dụng họ để kiểm soát công chúng. Đồng thời, ông ra lệnh cho Việt minh phải hạ vũ khí.
Ngày 28-2-1946, hòa ước Trung-Pháp được ký kết. Theo đó, Trung Hoa dân quốc đồng ý rút khỏi Đông Dương trong thời gian từ 1 đến 15-3, chậm nhất là 31-3. Pháp được quân Tưởng cho phép đưa một số quân vào miền Bắc để đổi lấy việc Pháp thôi không đòi những nhượng địa cũ của họ ở Trung Quốc. Việc này sẽ làm cho Pháp rảnh tay hơn trong việc tái lập quyền kiểm soát của họ đối với thuộc địa cũ ở Đông Dương. Tuy nhiên, những người lính Quốc dân đảng cuối cùng phải đến ngày 15-6 (1946) mới rời Việt Nam. Điều này đã giúp Chính phủ Cụ Hồ rảnh tay đối phó với Pháp.
Về phía người Pháp, ngay từ ngày 16-8 (1945) trong khi Cụ Hồ còn bận bịu với Quốc dân đại hội ở Tân Trào, Sác-lơ Đờ Gôn đã bổ nhiệm tướng Giắc Phi-líp đờ Hô-te-lốc (bí danh là Lơ Cléc) giữ chức Tổng Tư lệnh các lực lượng Pháp tại Viễn Đông và ra lệnh cho ông ta triển khai một số đơn vị vào Việt Nam. Đờ Gôn còn bổ nhiệm đô đốc Gioóc Thi-ê-ri Đác-giăng-li-ơ giữ chức Cao ủy Đông Dương. Được mệnh danh là cha xứ không mặc áo tu, sự bổ nhiệm này về sau hóa ra là một sai lầm kinh khủng. Mười ngày sau, 27-8, Cao ủy mới phụ trách Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Giăng Xanh-tơ-ni từ phái bộ Pháp ở Côn Minh đã nhảy dù xuống Việt Nam... Và đến đầu tháng 10-1945, hai tiểu đoàn bộ binh Pháp, một đơn vị Com-măng-đô và một trung đoàn thiết giáp đã đến Sài Gòn dưới sự chỉ huy của Lơ Cléc. Vài ngày sau, chính phủ Anh quyết định chính quyền Pháp phải lên thay càng nhanh càng tốt. Luân Đôn nhận thấy rằng người Pháp phải ra tay giải quyết vấn đề, còn lực lượng bé bỏng của quân Anh thì rút đi càng sớm càng tốt. Như trút được gánh nặng, tướng Gra-xây bàn giao cho Lơ Cléc. Đầu tháng 11, đô đốc Thi-ê-ri Đác-giăng-li-ơ đến Sài Gòn nhậm chức. Vài tháng sau, tháng 2-1946, tiểu đoàn 2 bộ binh lê-dương (REI) đến Sài Gòn và tức khắc được điều đến Trung Kỳ. Tại đây, trong 3 tháng chiến đấu đẫm máu với Việt minh, họ đã thương vong 230 người. Tháng 4-1946, số còn lại của tiểu đoàn REI 5 từ Trung Quốc trở về và tập kết tại Sài Gòn. Cũng trong tháng 4, những binh sĩ Anh cuối cùng đã rút đi để quân Pháp thế chân. Lực lượng Pháp tại Sài Gòn được Anh trang bị vũ khí, quần áo; chúng ngồi trên xe chạy quanh thành phố với trang bị có in hàng chữ: “Vũ khí thuê của chính phủ Hoa Kỳ”.
Tháng 10-1946, tướng Giáp đi cùng Xanh-tơ-ni đến Sài Gòn gặp Lơ Cléc. Hai nhân vật này đã không làm việc tốt với nhau vì thái độ khinh thường của Lơ Cléc đối với đối thủ của mình. Sự đánh giá sai lầm của Lơ Cléc để lại những hậu quả sau này. Tuy Lơ Cléc sẽ không ở lại Đông Dương lâu dài, nhưng hành động trên của ông ta đã gây tổn thất xét về cách mà Cụ Hồ và chính phủ Pháp đánh giá nhau.
Nguyễn Đăng Song (lược thuật)