Sân bay dã chiến Cần Thơ của Mỹ-ngụy bị phá trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Ảnh tư liệu

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không chỉ làm Tổng thống Mỹ Giôn-xơn phải rời bỏ Nhà Trắng mà còn làm tiêu tan sự nghiệp cầm quân của tướng Mỹ Uy-li-am Oét-mo-len. Trong bài viết này, tôi xin được trình bày tập trung vào tướng Oét-mo-len với Xuân Mậu Thân 1968, người trực tiếp chịu trách nhiệm chính trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

Như nhiều người đã biết, sau khi bị “trận đòn chết điếng” Xuân Mậu Thân 1968, Tổng thống Mỹ hồi đó là Giôn-xơn đã phải chấp nhận hạn chế ném bom chống lại nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, chấp nhận cuộc đàm phán ở Pa-ri, đồng thời tuyên bố tự rút lui không ra tranh cử tổng thống một nhiệm kỳ nữa. Liền sau đó Giôn-xơn cách chức tướng Uy-li-am Oét-mo-len khi viên chỉ huy này đòi tăng thêm 208.000 quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam nhằm đối phó với làn sóng tiến công và nổi dậy đang tràn ngập lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Nhiều tờ báo Mỹ đã bình luận một cách mỉa mai, chua chát: như vậy có nghĩa là Tổng thống Mỹ đã tự cách chức mình và cách chức luôn cả Tổng chỉ huy các lực lượng Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Suốt một thời gian dài sau khi Oét-mo-len bị Giôn-xơn “đá hất” về Lầu Năm Góc, dư luận Mỹ và cả nhiều nước trên thế giới tới tấp chỉ trích Oét-mo-len là một viên tướng “tự cao tự đại”, “chủ quan khinh địch”, một tư lệnh “vụng về, sơ hở” trên chiến trường, dẫn đến một “thất bại kép” chôn vùi danh tiếng trong vũng bùn chiến tranh ở Việt Nam, mà còn làm hại lây đến Tổng thống Mỹ Giôn-xơn, bôi nhọ uy tín của nước Mỹ và quân đội Mỹ. Ngay cả sau khi Oét-mo-len đã nghỉ hưu rồi lặng lẽ qua đời ở tuổi 91 trong một trang trại riêng ở vùng nông thôn Nam Ca-rô-li-na, những lời chỉ trích Oét-mo-len vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt. Tuy nhiên, cùng với thời gian, những suy nghĩ về cuộc chiến tranh Việt Nam cũng dần lắng đọng trong dư luận Mỹ; dư âm về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mặc dù vẫn còn xao động trong ký ức những người Mỹ, nhất là những cựu chiến binh Mỹ đã tham gia chiến đấu ở miền Nam Việt Nam, nhưng cũng đã được tuần tự chắt lọc, những nhận xét về Oét-mo-len có phần tỉnh táo, đúng mức hơn trước. Một dẫn chứng cụ thể là tờ The VVA Veteran, tự nhận là “tiếng nói chính thức của cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam”, số tháng 10-2005, đã đăng một bài viết dài nhan đề Một hồi tưởng nhớ về Uy-li-am Oét-mo-len, với nhiều tư liệu khá phong phú, có thể đáp ứng việc nghiên cứu và đánh giá viên Tư lệnh Mỹ này trên chiến trường Việt Nam hồi Tết Mậu Thân 1968.

Oét-mo-len sinh năm 1914-năm bùng nổ Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Năm 1932, Oét-mo-len được tuyển chọn vào Trường cao đẳng quân sự nổi tiếng Westpoint lúc vừa tròn 18 tuổi, tốt nghiệp xuất sắc chuyên ngành pháo binh, được phong quân hàm trung úy năm 22 tuổi. Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nhưng mãi tới năm 1942 nước Mỹ mới tham chiến. Lập tức, Oét-mo-len được cử sang Bắc Phi và đã từng “chọi nhau” với Thống chế Đức phát xít Rôm-men, được tặng thưởng huân chương ngay trong trận chiến đấu đầu tiên, tiếp đó được tham gia trận đổ bộ lớn nhất trong lịch sử chiến tranh, chọc thủng phòng tuyến Đức trên vùng bờ biển Noóc-man-đi, miền Bắc nước Pháp, rồi từ Pháp vượt sông Rhin tiến sang đất Đức. Mãi tới năm 1946, ông ta mới trở về Mỹ học bổ túc chuyên ngành “tham mưu và chỉ huy” thuộc Học viện chiến tranh với cấp bậc đại tá. Tốt nghiệp Học viện, Oét-mo-len được cử làm tham mưu trưởng Sư đoàn dù 82-một trong những sư đoàn tham chiến tại Triều Tiên trong những năm 1952-1953. Sau khi ký Hiệp định đình chiến tại Triều Tiên năm 1953, Oét-mo-len được phong quân hàm cấp tướng khi mới 39 tuổi và là “một viên tướng trẻ tuổi nhất nước Mỹ hồi đó”.

Năm 1960, Oét-mo-len được cử làm giám đốc Trường cao đẳng quân sự Westpoint-nơi Oét-mo-len trước kia đã từng là một học viên. Oét-mo-len được nhiều người kính nể vì vừa có kinh nghiệm chiến đấu thực tế trên nhiều chiến trường từ châu Âu qua châu Phi đến châu Á, kinh qua công tác tham mưu ở Lầu Năm Góc rồi mới ngồi trên ghế “Hiệu trưởng” để đào tạo các sĩ quan trẻ tuổi. Mặt khác, Oét-mo-len cũng là người có nhiều sáng kiến tầm chiến lược. Một thí dụ cụ thể là Oét-mo-len đã kiến nghị với Lầu Năm Góc tổ chức một trường đào tạo lính biệt kích dù, do chính ông ta đặt tên là Recomdo ghép hai từ Reconnaissance (do thám) với Commando (biệt kích) nhằm huấn luyện cho binh sĩ vừa thông thạo nhảy dù vừa có khả năng do thám, tác chiến. Sư đoàn dù 101 được đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Oét-mo-len không theo biên chế thông thường với các tiểu đoàn, trung đoàn mà gồm 5 đơn vị tập trung, mỗi đơn vị 1.400 quân, lớn hơn tiểu đoàn nhưng nhỏ hơn trung đoàn. Sư đoàn này đã được sử dụng làm công cụ đàn áp những cuộc nổi dậy ở Mỹ La-tinh, hồi đó đang được coi là “sân sau” của Mỹ.

Từ những bằng chứng trên, có thể khẳng định trước khi đặt chân tới Nam Việt Nam, tướng Oét-mo-len đã từng là một chỉ huy năng nổ, có sáng kiến cả trong việc tổ chức huấn luyện và chiến đấu, tuy thuộc lớp tướng trẻ nhưng đã được tôi luyện dày dạn trong chiến đấu trên nhiều chiến trường, kể cả chiến trường Triều Tiên-một bán đảo ở châu Á tương tự như Việt Nam.

Oét-mo-len được cử đến Việt Nam đúng vào thời điểm thực dân Pháp, sau thảm bại ở Điện Biên Phủ, đã phải rút hết quân khỏi thuộc địa cũ ở Đông Dương và đế quốc Mỹ đang tuần tự thay Pháp thôn tính Nam Việt Nam theo chính sách thực dân kiểu mới. Đối với Oét-mo-len, việc rời bỏ nước Mỹ tới Việt Nam không phải là điều bất ngờ. Ngay từ khi còn ngồi trong phòng làm việc tại Lầu Năm góc cũng như trên ghế hiệu trưởng Trường cao đẳng quân sự, những tin tức về Nam Việt Nam vẫn thường được đưa ra thảo luận ở Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân cũng như trong Ban giám hiệu Trường cao đẳng quân sự và Học viện Quốc phòng về khả năng Mỹ can thiệp vào Nam Việt Nam.

Nếu trong 9 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, Pháp lần lượt thay tới 7 tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang Đông Dương, thì trong 21 năm can thiệp rồi xâm lược Nam Việt Nam, Mỹ chỉ cử tới khu vực nóng bỏng này 4 chỉ huy trưởng, mới đầu được gọi một cách rất mập mờ là người cầm đầu nhóm cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ (gọi tắt là MAAG), đến năm 1962 mới chính thức gọi là tư lệnh cơ quan yểm trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (gọi tắt là MACV). Trên thực tế, từ khi tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” năm 1961 ở miền Nam Việt Nam, rồi năm 1965 chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” và năm 1968 bùng nổ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, chỉ có một mình Oét-mo-len là người chịu trách nhiệm chính. Mới đầu, Oét-mo-len là viên phó phụ trách tác chiến của Pôn Ác-kin, đến năm 1964, ông ta thay Pôn Ác-kin lãnh đạo Bộ Tư lệnh quân sự Mỹ ở Sài Gòn.

Trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai cho tới khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, chỉ có hai viên tướng Pháp được công nhận là “tướng tài” và được truy phong danh hiệu thống chế. Đó là Phi-líp Lơ Cléc và Đờ Tát-xi-nhi, nhưng cả hai viên tướng bậc nhất này đều thừa nhận họ chỉ quen tác chiến ở châu Âu, đến khi đột ngột nhận nhiệm vụ sang Đông Dương thì chưa hiểu gì về mảnh đất xa xôi này cả. Ngược lại, khi còn làm việc tại Lầu Năm góc cũng như khi làm Giám đốc Trường cao đẳng quân sự Westpoint, Oét-mo-len đã nhiều lần có dịp nghiên cứu tìm hiểu tình hình Việt Nam. Trước khi tới Nam Việt Nam, Oét-mo-len đã tìm gặp một số tướng Pháp đã tham gia chiến đấu Việt Nam để tìm hiểu cuộc kháng chiến đã làm Pháp thất bại, nhất là tìm hiểu về chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau khi tới Việt Nam, Oét-mo-len tiếp tục tìm hiểu đất nước, con người Việt Nam qua chế độ Sài Gòn và những người lính ngụy mà Oét-mo-len có trách nhiệm điều khiển nhóm cố vấn. Oét-mo-len cũng khoe đã tìm đọc nhiều bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như của Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp nhằm nghiên cứu sâu về đối phương.

Khi được cử thay Pôn Ác-kin cầm đầu Bộ tư lệnh quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam (gọi tắt là MACV), Oét-mo-len cảm thấy “lo lắng nhiều hơn vui mừng”. Oét-mo-len tiết lộ, từ ngày làm phó cho Pôn Ác-kin, ông ta “đã đi thị sát toàn bộ các chiến trường ở miền Nam Việt Nam, từ bờ Nam sông Bến Hải đến tận đồng bằng sông Cửu Long, nghiên cứu địa hình, thời tiết, tìm hiểu phong tục, tập quán người dân” và đã phát hiện thấy đây là một cuộc chiến tranh kỳ lạ chưa từng trải qua và một đối thủ rộng khắp chưa từng chạm trán trong những cuộc chiến tranh mà ông ta đã từng tham gia chiến đấu từ An-giê-ri, Tuy-ni-di, I-ta-li-a, Pháp, Đức đến Triều Tiên. Tiết lộ này chứng minh Oét-mo-len “không hề chủ quan khinh địch” như nhiều nhà bình luận trước đây thường nhận xét, và đó cũng là điểm gây khó khăn thêm cho cuộc tiến công và nổi dậy của đồng bào ta ở miền Nam Việt Nam.

LÊ KIM (Còn nữa)