 |
Chủ tịch Hồ Chí Minh trao đổi công tác với đồng chí Trường Chinh tại Việt Bắc, năm 1953. Ảnh tư liệu |
Với cương vị Tổng Bí thư, dưới sự lãnh đạo và quán triệt thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh là trung tâm trong Bộ Chính trị, cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Quan điểm của đồng chí về đường lối kháng chiến là chiến tranh nhân dân chính nghĩa, toàn dân, toàn diện. Về tính chất của chiến tranh, đồng chí nói: “Cuộc chiến tranh của ta là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh tự vệ của dân tộc, là chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh tiến bộ”1.
Về phương châm chiến lược, đồng chí đề xuất: “Đánh lâu dài, đó là bí quyết của sự thắng lợi”2.
Vì sao đánh lâu dài? Đồng chí giải thích: “Vừa đánh vừa giữ gìn thực lực, bồi dưỡng lực lượng, huấn luyện quân và dân... chuyển yếu thành mạnh; đồng thời gắng làm sao địch tiêu hao, mỏi mệt, chán nản, đến nỗi thế địch mạnh chuyển thành yếu...”3.
Đồng chí còn đi sâu hơn nữa trong chỉ đạo chiến tranh, đi vào chỉ đạo nghệ thuật quân sự. Về phương châm chiến lược, đồng chí đề ra đánh lâu dài. Nhưng về phương châm tác chiến thì đồng chí lại đề ra là giải quyết mau từng trận, trên cơ sở của tư tưởng tích cực tiến công. Đó là một cách nhìn nhận biện chứng, thấy hai mặt đối lập của sự vật, thấy mâu thuẫn của sự vật, nhưng biết cách giải quyết mâu thuẫn thì sự vật mới vận động phát triển và tiến lên được. Đồng chí nói: “Ta bị đánh. Địch mạnh hơn ta. Nếu ta chỉ thủ thế, bị đánh đâu đỡ đó thì càng đánh càng suy nhược, càng đánh càng thua. Cho nên trong các chiến dịch và chiến đấu, phải tìm chỗ yếu của địch mà đánh, phải tích cực tiến công để tiêu diệt địch. Đã tiến công, phải đánh mau, giải quyết mau (Chiến lược đánh lâu, nhưng chiến dịch và chiến thuật giải quyết mau)”4.
Cuộc kháng chiến đã vận động, phát triển đúng như thế, và ta đã giành được thắng lợi.
Về phép đánh - phương pháp tác chiến, đồng chí đề ra cách đánh phổ biến là du kích chiến và vận động chiến. So sánh về tương quan lực lượng giữa ta và địch, đồng chí đề ra cách đánh đó là phù hợp, nhưng căn cứ vào các giai đoạn chiến tranh, vào so sánh tương quan lực lượng, so sánh về tài thao lược và yêu cầu chiến lược của giai đoạn mới, đồng chí cũng đề ra là đến giai đoạn cuối của chiến tranh, trận địa chiến sẽ xuất hiện. Đó là quan điểm biện chứng trong chỉ đạo chiến tranh. Đó là một điều quan trọng trong phương pháp luận chỉ đạo chiến tranh. Đồng chí nói: Nói chung du kích chiến phải là lối đánh phổ biến nhất của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến lâu dài này. Dần dần chiến tranh phát triển, bộ đội ta đánh thạo hơn, ta có nhiều vũ khí tinh xảo hơn, thì vận động chiến được áp dụng nhiều hơn và đến bước tổng phản công, trận địa chiến sẽ chiếm ưu thế.
Đồng thời, đồng chí cũng phê phán một số nơi vận dụng trận địa chiến ở giai đoạn đầu của chiến tranh là không đúng. Vấn đề này chứng tỏ đồng chí có tiến hành đấu tranh giữa cái đúng và cái sai để khẳng định cái đúng, bảo vệ cái đúng, đưa nghệ thuật chỉ đạo tác chiến đi vào đúng quỹ đạo, đúng quy luật.
Đồng chí còn đưa ra một cách sáng tạo về hình thái chiến tranh để chỉ đạo cách đánh cho sát hợp. Do nhận thức được hình thái vận động của sự vật, nên chỉ đạo sự vật đi đúng đường hướng, cách thức của nó. Do đó ta mới có thể ít đánh nhiều, nhỏ đánh lớn theo cách đánh du kích vận động chiến để giành thắng lợi.
Đồng chí chỉ rõ hình thái của cuộc kháng chiến chống Pháp như sau:
Chiến tranh cài răng lược,
Chiến tranh lộn ẩu,
Chiến tranh không mặt trận,
Chiến tranh bao vây,
Chiến tranh tiêu thổ.
Quân ta đánh theo hình thái chiến tranh này thì địch dù có cơ động mạnh cũng phải phân tán, bị chia cắt và ta mới có thể thắng được địch.
Trong kháng chiến chống Mỹ, vì ta có chiến tranh nhân dân phát triển cao, ta vận dụng cách đánh phù hợp với hình thái chiến tranh này, nên cũng đã giành được thắng lợi.
Có chiến tranh nhân dân mới tạo ra được hình thái chiến tranh này. Việc đề ra hình thái cài răng lược là một sáng tạo của đồng chí Trường Chinh trong chỉ đạo chiến tranh.
Về các giai đoạn của cuộc kháng chiến lâu dài, đồng chí còn nêu ra các giai đoạn chiến tranh. Đồng chí nêu ra ba giai đoạn là phù hợp để chỉ đạo chiến lược và chiến thuật cho phù hợp với từng giai đoạn: Mọi sự vật vận động đều có bước phát triển của nó, từ thấp đến cao, nhỏ đến lớn, từ xanh đến đỏ, đến chín. Ở đây, biện chứng tự nhiên thống nhất với biện chứng xã hội. Có nhận thức được các bước phát triển của sự vật như thế thì mới chỉ đạo sự vật đi đúng đường hướng, đi đúng quy luật vận động của nó.
Cuộc kháng chiến của ta lúc đầu ta nhỏ yếu nên không thể tổ chức phòng ngự chiến lược và chiến dịch được. Chỉ có phòng ngự chiến thuật và chiến đấu. Do đó phải tạm thời rút bỏ các thành phố đô thị để bảo toàn lực lượng, chuyển về nông thôn, về các vùng rừng núi để tiếp tục chiến đấu, xây dựng phát triển lực lượng. Ta tiến hành đánh du kích và du kích vận động chiến. Với tinh thần chiến đấu kiên cường và cách đánh du kích và du kích vận động chiến, địch không tiêu diệt ta được. Ta đánh tiêu diệt nhỏ và tiêu hao lớn quân địch. Lực lượng ta ngày càng phát triển.
Theo phương pháp luận lãnh đạo chiến tranh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta, ta kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Khi ta tổ chức được các đơn vị chính quy rồi, các đơn vị lớn rồi thì có thể kết hợp đánh lớn được, đánh tập trung được. Thế và lực của ta và địch là tương đương nhau.
Địch tiến công ta. Ta cũng có thể tiến công lại địch. Ở giai đoạn này là giai đoạn đối chọi chiến lược giữa ta và địch.
Đến giai đoạn cuối của chiến tranh, ta đã mạnh hơn địch về tinh thần và lực lượng thì ta có thể phản công và tiến công. Đồng chí Trường Chinh đề ra ba giai đoạn là đúng.
Phương pháp luận về ba giai đoạn là biện chứng. Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày cũng nêu ba giai đoạn(5). Đồng chí Trường Chinh đề ra ba giai đoạn là quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ta nói biện chứng là theo quy luật vận động của sự vật, của chiến tranh. Lúc đầu yếu thì chưa thể tiến công được. Lực lượng của ta đã phát triển, tương đương với địch, thì có phòng ngự, có tiến công. Đến khi hơn địch về tinh thần và lực lượng thì có thể tiến công, đặc biệt là hơn địch về tinh thần. Nhưng theo tư tưởng cách mạng thì trong giai đoạn đầu ta vẫn tiến công nhỏ để bảo toàn lực lượng và phát triển lực lượng ta và tiêu hao địch, làm suy yếu địch từng bước.
Lịch sử chiến tranh đã chứng minh, khi ta có lực lượng, có sức mạnh tương đương địch, hoặc ít hơn địch một chút thì ta vẫn có thể phòng ngự được, không sợ địch tiêu diệt, để giữ vững những địa bàn trọng yếu.
Lý Thường Kiệt đã phòng ngự - phòng ngự chiến lược để giữ vững tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu) để bảo vệ Thủ đô Thăng Long. Phòng ngự thành công tạo điều kiện cho sau đó phản công tiêu diệt đạo quân Quách Quỳ giải phóng đất nước khỏi ách xâm lược.
Phản đối phòng ngự là không nắm được quy luật của chiến tranh. Có lúc không có phòng ngự. Nhưng có lúc có phòng ngự.
Qua thực tiễn chỉ đạo cuộc chiến tranh chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh đã cùng Bộ Chính trị căn cứ vào các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã nêu ra các quan điểm chỉ đạo chiến tranh thành đường lối, phương châm, nguyên tắc, lý luận. Trong lý luận đó có thể hiện tinh thần sáng tạo và quan điểm biện chứng sâu sắc, thể hiện được quy luật của chiến tranh chính nghĩa: ít địch nhiều, nhỏ đánh lớn. Có thế cuộc kháng chiến mới đi đúng đường hướng và giành được thắng lợi. Đồng chí có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận về chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam ngày càng được phát triển, sáng tạo và nâng lên một tầm cao mới.
Học tập, kế thừa những tư tưởng về quan điểm, lý luận của đồng chí Trường Chinh, chúng ta vận dụng trong tình hình mới một cách sáng tạo để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thượng tướng HOÀNG MINH THẢO
---------------------------------------
1, 2, 3, 4: Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.2, 28, 32, 33, 34.
5: Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1965, tr.6, 164.