Đó là tựa đề cuốn sách do Nhà xuất bản Lao Động vừa phát hành nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm 100 năm ngày sinh và 40 năm ngày mất (1907-2007) của đồng chí Trần Tử Bình-một trong 9 cán bộ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định phong quân hàm Thiếu tướng, năm 1948.
Đồng chí Trần Tử Bình vốn là một thanh niên công giáo, một học sinh trường dòng, thông qua sách báo tiến bộ mà giác ngộ cách mạng. Cuối năm 1926, vì tham gia để tang cụ Phan Chu Trinh nên ông bị đuổi học. Trên đường kiếm sống ông đã gặp nhà cách mạng Tống Văn Trân. Năm 1927, ông vào Nam Bộ làm phu đồn điền cao su Phú Riềng. Được đồng chí Ngô Gia Tự giác ngộ, được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội và tháng 10-1929 trở thành đảng viên Đông Dương Cộng sản Đảng. Tháng 2-1930 khi mới 23 tuổi, Trần Tử Bình đã cùng chi bộ lãnh đạo thắng lợi cuộc đấu tranh đòi quyền sống của 5.000 công nhân cao su, làm nên một Phú Riềng Đỏ lịch sử. Bị bắt, bị kết án và đày ra Côn Đảo nhưng ông tiếp tục đấu tranh.
Do ảnh hưởng của Mặt trận Bình Dân, năm 1936, ông được trả về đất liền và bị quản thúc ở quê nhà. Năm 1941, ông được chỉ định vào Xứ uỷ Bắc Kỳ. Cuối năm 1943, ông lại bị bắt ở Thái Bình, bị chuyển qua các nhà lao Hà Nam, Ninh Bình rồi về Hoả Lò (Hà Nội). Đêm 12-3-1945, ông tham gia tổ chức cuộc vượt ngục lịch sử. Cho đến ngày 16-3-1945, gần 100 tù chính trị theo đường cống ngầm đã trở về với phong trào. Ông về xây dựng Chiến khu Hoà-Ninh-Thanh. Trên cương vị Ủy viên Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, ông tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa 19-8-1945 tại Hà Nội và một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ.
Suốt 14 năm quân ngũ, ông có nhiều đóng góp cho công tác xây dựng nhà trường, đào tạo hàng nghìn sĩ quan, xây dựng các đại đoàn quân chủ lực. Là Phó tổng Thanh tra quân đội ông tham gia giải quyết những vụ án lớn như vụ “gián điệp ảo” H122, vụ tham nhũng của đại tá Trần Dụ Châu… Sau 1954, ông là phó Tổng Thanh tra Chính phủ, đến năm 1959 ông được chuyển sang Bộ Ngoại giao. Suốt 8 năm sau đó, trên cương vị Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, có nhiều đóng góp xây dựng, phát triển quan hệ hợp tác hai nước Việt-Trung, nhất là giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Năm 1967 ông đột ngột từ trần tại Hà Nội.
Với hơn 700 trang viết, bao gồm hồi ký cách mạng “Phú Riềng Đỏ”, “Thoát ngục Hỏa Lò”, “Khởi nghĩa Hà Nội”… cùng các bài hồi ức sâu sắc của bạn bè, đồng chí qua các thời kỳ của các tướng lĩnh trong quân đội và con cháu trong gia đình. Bằng lối viết chân thực, mộc mạc và hơn 100 ảnh tư liệu giá trị lần đầu tiên được công bố, cuốn sách phần nào vẽ lại chân dung và nhân cách một vị tướng mưu lược và anh dũng, một chiến sĩ cách mạng kiên trung.
Trong bài “Tưởng nhớ anh Trần Tử Bình”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Anh là tấm gương sáng cho các thế hệ hiện nay và mai sau học tập. Tôi mãi mãi giữ những kỷ niệm và ấn tượng tốt đẹp về anh!”.
KIẾN QUỐC