 |
Đồng chí Nam Long chỉ huy mặt trận phía đông Sài Gòn tháng 11-1945 |
Ngày 23-9-1945 quân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, thì ngày 26-9 một đơn vị Việt Minh Hà Nội sáp nhập với chi đội 3 và 4 là hai đơn vị Giải phóng quân từ chiến khu Việt Bắc mới về, được lệnh Nam tiến đánh giặc. Hôm anh Văn đến gặp Bác, tôi nói với anh xin cho tôi ra chiến trường. Được Bác đồng ý, tôi đến doanh trại Giải phóng quân thì chi đội đã lên đường rồi. May gặp cái xe cam nhông (xe tải) của khu 4 ra lĩnh vũ khí, anh Nguyễn Quyết xếp cho Nam Long đi nhờ tới Vinh nhập đoàn. Nam Long được anh Văn giao vào làm chính trị viên thay anh Nguyễn Văn Rạng quay ra nhận nhiệm vụ khác.
Khi qua các ga đều có thêm nhiều đơn vị Vệ quốc đoàn địa phương dọc đường lên tàu, nhưng lúc này đều được gọi chung là Quân giải phóng.
Tới Nha Trang, tôi gặp lại người anh họ Hoàng Đình Gioong (Vũ Đức) và Đàm Vinh Viễn đi bằng ô tô đã có mặt ở đây trước. Anh Gioong dặn Nam Long và Phúc Thơ (Mông Văn Vẩy) dẫn chi đội vào thẳng bắc Sài Gòn, còn anh và anh Viễn sẽ xuống thẳng Tây Nam Bộ. Tàu tới Phan Thiết, Nam Long nhờ Tỉnh ủy mượn xe hơi đi trước vào gặp Thành ủy Sài Gòn, vừa tới Thủ Đức đã thấy các anh Trần Văn Giàu, Hà Huy Giáp... lại mặc com lê tươm tất ra đón. Ngày 9-10-1945, chiến sĩ Nam tiến đầu tiên đã vào áp sát Sài Gòn gồm đại đội Thắng Lợi, đại đội Đoàn Huyên; trung đội các chàng trai Thủ đô áp sát Biên Hòa. Tôi và anh Thơ đi trinh sát. Các anh mượn cho quần áo thợ mặc vào, xách gióng mía, nải chuối cải trang làm người đi chặt mía thuê và đi ăn giỗ; tới cầu Bình Lợi thì gặp đoàn xe nhà binh đồng minh qua cầu Băng Kỵ tiến vào. Sang tới bắc cầu, gặp bác đánh xe ngựa, nhờ bác quay lại cho quá giang về Thủ Đức.
Anh Đào Duy Kỳ cho hay, trên điều anh Phúc Thơ lên làm ủy viên quân sự miền Đông Nam Bộ, còn Nam Long làm Chi đội trưởng kiêm chính trị viên chi đội. Tôi bàn với anh Hà Huy Giáp và anh Trần Văn Giàu tìm cách ngăn không cho quân đồng minh mở đường cho bọn Pháp theo sau tái chiếm nước ta, dẫn chi đội hành quân về hướng tây Thủ Đức bố trí dọc theo sông Sài Gòn, đặt sở chỉ huy trong xưởng cưa. Tôi dẫn hai xạ thủ trung liên là Thái và Khắc lên bố trí ngay trên mặt cầu. Sáng hôm sau, thấy địch tiến dần vào phía bên kia cầu, Thái và Khắc liền nổ súng giòn giã. Chi đội có mỗi khẩu cối 60mm, tôi cũng cho nhả đạn. Địch bắn trả và cho cối 82mm bắn về phía chúng tôi. Đến đêm địch cho ca nô chở quân định đổ sang bờ bắc, bị anh em ta tung lựu đạn và nổ súng, chúng phải quay lại bờ nam. Hai bên giằng co đến ngày thứ ba thì một tên quan năm Nhật đến gặp tôi cho biết: hôm qua tên quan tư của quân Anh theo lệnh của tướng Gra-xy, tư lệnh đồng minh, đã nhảy dù xuống Long Thành bắt quân Nhật đánh vào sau lưng đội hình của chi đội Việt Minh để mở đường cho quân đồng minh qua cầu Bình Lợi đánh vào Biên Hòa... Địch rất đông, gồm quân Anh-Pháp cùng hơn 3.000 lính Nhật. Anh Giáp bàn phải đưa chi đội ra khỏi vòng vây, tạm rút về Tam Hiệp-Vĩnh Cửu, tính sau. Anh em chốt trên cầu Bình Lợi không thông, tôi giải thích: "Đây là lệnh. Bác Hồ đã nói: cuộc kháng chiến của ta còn dài, phải biết bảo toàn lực lượng. Rồi chúng ta sẽ trở lại Sài Gòn…". Tôi đâu ngờ, 30 năm sau, ngày 30-4-1975 tôi mới đi qua được cầu Bình Lợi này tiếp tục trận đánh vào Sài Gòn…
Do trang bị vũ khí, lực lượng quá chênh lệch, chi đội lùi ra thị trấn Xuân Lộc phối hợp với anh em du kích người Thượng chặn địch từ Biên Hòa nống ra, cuối tháng 10 lại lùi ra Phan Thiết. Lúc này, Trung ương cử tướng Nguyễn Sơn và Nguyễn Bình cùng nhiều đơn vị từ Bắc mới tăng cường vào. Ta bao vây quân Nhật, nổ súng quyết liệt, giải phóng được thị xã Phan Thiết. Được lệnh, chi đội lại ra phối hợp với một phân đội của Quảng Ngãi mới vào, cùng du kích người Chăm, Cờ Ho,… tấn công quân Nhật ở thị xã Phan Rang. Quân Nhật chống trả điên cuồng, đại đội trưởng Thắng Lợi hy sinh, rồi tiểu đội trưởng Thái, cậu học trò vui nhộn đã cầm cờ xông vào trại bảo an binh trong ngày Tổng khởi nghĩa 19-8 ở Hà Nội cũng ngã xuống... Đến ngày 24-11 ta diệt nhiều địch, bắt sống được 7 lính Nhật và thu được khá nhiều vũ khí, giải phóng được thị xã...
Sau hơn một tháng chiến đấu, chi đội lui về Tháp Chàm củng cố, rồi được lệnh lên tham gia chặn địch tại Tây Nguyên không cho chúng nống về Ninh Hòa, ra Plei-cu. Cuối tháng, thêm nhiều chiến sĩ từ Bắc vào bổ sung khi trung đội Hà Nội đang chặn địch ở km 47 đường 21. Lúc này, anh Văn (Võ Nguyên Giáp) có mặt ở Ninh Hòa chỉ đạo qua điện thoại cho Nam Long, chi đội được tăng cường cối 81mm và pháo binh, ngày 21-1 mở cuộc tấn công vào Buôn Ma Thuột. Nhưng vài hôm sau, quân Pháp có xe tăng, đại bác, máy bay tăng cường phản kích chiếm lại. Đúng 30 Tết (28-1), đơn vị về tập kết ở Đồng Bò để củng cố, rồi về đóng ở sông Cầu-Phú Yên, chặn địch ở đèo An Khê, sau đó phát triển thành nhiều tiểu đoàn, trung đoàn chủ lực. Còn tôi được lệnh ra Bắc nhận nhiệm vụ mới…
Đón xuân kháng chiến đầu tiên của dân tộc, bộ đội Cụ Hồ tất cả các tỉnh từ biên giới cực bắc Tổ quốc đã vào Nam sát cánh cùng quân và dân Nam Bộ chiến đấu giữ nước. Nhân dân miền Nam coi các chiến sĩ Nam tiến như con em ruột thịt của mình. Mùa xuân ấy có thể coi là một mùa xuân hội quân của cả nước đáng ghi nhớ của quân đội ta, vào thời kỳ trẻ tuổi đã ra mặt trận chiến đấu cùng miền Nam. Từ mùa xuân Nam tiến ấy, nghĩa Bắc-tình Nam ruột thịt càng thêm thắm, thêm nồng, chiến đấu vì mùa xuân độc lập, thống nhất của Tổ quốc.
NH ghi