Các nhân chứng tham gia trận Làng Khoai. Ngồi từ bên trái: Ông Hồng Giang, ông Trịnh Tráng, ông Toát (du kích), ông Đinh Hiền, ông Khuynh.

1. “Trận làng Khoai” diễn ra ngày 17-6-1948 là trận đánh của quân chủ lực tỉnh Bắc Ninh và du kích xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình nhưng cũng có mưu kế, thế trận, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ địch, thu mọi vũ khí.

Trận địa ta bố trí đánh địch ở đầu thôn Đông (làng Khoái Khê), trên thành hào cao hơn ruộng. Muốn tiến công vào trận địa ta, địch phải hành quân trên đường 282 độc đạo thấp hơn thành hào, hai bên đường nước trắng xoá. Khi tiếp cận để tấn công, địch phải lội xuống ruộng và đi trong tầm ngắm của quân ta. Khi bị ta bắn hoặc ném lựu đạn, địch phải nằm xuống sườn đường phía làng Hương Triện để tránh.

Trên đường tiến vào trận địa của ta, cầu Khoai đã phá, chúng muốn qua khúc sông này phải đi bằng đò. Ta thay người chở đò bằng hai du kích là anh Ba Cổn, anh Đồng và dặn kỹ: khi chở địch qua đò phải bình tĩnh không làm cho chúng nghi, phải nắm chắc quân số, vũ khí để báo cho chỉ huy. Khi địch sang đò hết phải bí mật dìm đò.

Ta bố trí trung liên ở gò Đồng Tháp thuộc làng Hương Triện để quét ngang vào đội hình địch. Tổ dân quân ở thôn Già bắn vào địch đi phía sau. Một tiểu đội quân chủ lực tỉnh túc trực suốt ngày đêm trên mặt hào ở thôn Đông, làng Khoai. Một tiểu đội khác của quân chủ lực tỉnh ém quân ở làng Triện sẵn sàng cơ động tới trận địa ở làng Khoai.

Địch bị thế trận bao vây theo hình tam giác (Hương Triện, thôn Đông, thôn Già), bị cầu Khoai chia cắt đội hình, phải lội nước, nhưng lại cậy thế “lính Âu Phi rạch mặt” nên rất chủ quan, coi nhẹ du kích. Khi bị đánh bất ngờ, mãnh liệt, dồn dập chúng tan rã nhanh chóng.

2. Phối hợp chặt chẽ các thứ quân trong một trận đánh ở vùng địch tạm chiếm:

Cách thức bố trí lực lượng chiến đấu của ta trong trận này là xen kẽ hàng ngang hoặc lớp trước lớp sau giữa quân chủ lực của tỉnh với du kích xã, giữa súng trường với kiếm, đao, lựu đạn, người chở đò kiêm trinh sát, liên lạc. Thao tác trung liên do quân chủ lực tỉnh, nhưng chỉ huy bộ phận hỏa lực là do Bí thư chi bộ (đồng chí Sủng ở làng Triện). Giải quyết thương binh và hậu cần do đồng chí Ngược, người làng Triện, nguyên Chủ tịch ủy ban hành chính huyện Gia Bình sau khởi nghĩa phụ trách. Trên lệnh cho trung đội quân chủ lực tỉnh phải đưa tù binh về bắc phần Bắc Ninh (vùng tự do) ngay trong đêm, do đó công tác thu dọn chiến trường do chính quyền xã và nhân dân hai làng Khoai và Triện giải quyết.

Trước, trong và sau trận đánh, chỉ huy và lãnh đạo quân chủ lực tỉnh và địa phương phối hợp nhịp nhàng. Đồng chí Tự, Phó chủ tịch xã điều hành toàn bộ dân quân, du kích xã. Trong trận đánh, đồng chí Sủng đảm nhận ba chức vụ: Bí thư Chi bộ, phó lý tề, chỉ huy hoả lực. Trường hợp ta gặp khó khăn trong trận đánh, đồng chí Sủng sẽ đứng ra nhân danh phó lý tề để giao dịch với địch.

3. Đánh giá “trận Làng Khoai”, xin trích dẫn các tài liệu đã xuất bản:

a) Lịch sử tiểu đoàn Thiên Đức Bắc Ninh trong chống Pháp 1946-1954 do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 2000, trang 26 ghi:

“Đây là một trận đánh tiêu biểu lần đầu diệt lính Âu Phi (diễn ra đúng lúc cách đánh của ta còn nặng về đánh tiêu hao và đang có tâm lý sợ lính Âu Phi). Trận đánh gây tiếng vang lớn đối với phong trào chiến tranh du kích khu vực”.

b) Bắc Ninh-lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954 do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 2000, trang 134 ghi:

“Chiến thắng Khoái Khê chứng tỏ chủ trương của Tỉnh ủy trong việc phân tán lực lượng, kết hợp ba thứ quân luồn sâu vào lòng địch để tiêu hao tiêu diệt xung lực địch là sáng tạo và phù hợp với tình hình tác chiến ở địa phương. Sau khi thực hiện thắng lợi chủ trương này, Bắc Ninh đã kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm và phổ biến rộng rãi trên toàn tỉnh. Sáng tạo của Bắc Ninh được Khu uỷ và Bộ Tổng tư lệnh đánh giá cao”.

4. Trận Làng Khoai đã chứng minh công thức “Đại đội độc lập tiểu đoàn tập trung” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề xuất năm 1947 là đúng đắn. Đó là công thức: các đơn vị để lại một đại đội hoạt động ở vùng sau lưng địch nhằm phát động, đẩy mạnh chiến tranh du kích. Bộ đội chủ lực cần được rèn luyện ở quy mô tiểu đoàn và từng bước cao hơn. Việc xây dựng đại đoàn xin được chậm lại. Công thức này được phát hiện và hình thành từ hoạt động trong vùng địch tạm chiếm của đại đội quân chủ lực của tỉnh Bắc Ninh, đã được Bác Hồ và đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh chấp nhận, được phổ biến thực hiện ở hội nghị cán bộ trung ương lần thứ 5 (tháng 8-1948).

Đại tá HỒNG GIANG