(Kỳ 2)

Tháng 3 năm 1946, khi tiếp xúc với đối thủ đầu tiên, Đại tướng Pháp Philip Lơcle, ông Giáp lại nói đến mục tiêu chính trị của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Ông nói: "Tôi là một người cộng sản, chiến đấu cho độc lập của đất nước chúng tôi…". Tất nhiên ngay lúc đó, tướng Lơcle-một viên tướng chuyên nghiệp cầm đầu đội quân viễn chinh xâm lược Pháp-không thể hiểu hết chiều sâu câu nói thốt ra từ một nhà chính trị đảm nhiệm công tác quân sự của chính quyền cách mạng Việt Nam. Ý chí, quyết tâm và tinh thần dân tộc gói gọn trong câu nói đó.

Tại hội nghị Đà Lạt, Jean Lacouture lại có dịp "tìm hiểu về nhà chính trị Võ Nguyên Giáp". Sau này, Jean viết:

Đại tướng Võ Nguyên Giáp
"Tại đây, ông lại thể hiện tài hùng biện cao cường của mình trong việc kịch liệt lên án cuộc chiến mà các đơn vị viễn chinh Pháp đang tiến hành ở Nam Bộ. các cuộc tranh luận của ông với đối thủ của mình là P. Messmer (người sau này trở thành bộ trưởng quốc phòng của De Gaulle) đã diễn ra cực kỳ gay gắt. Nhưng ông biết tiết chế lời lẽ của mình và trong suốt quá trình đàm phán, ông luôn tìm kiếm sự hiểu biết lẫn nhau từ phía Pháp".

Tiếc rằng hồi đó (như bức thư đề ngày 8 tháng 2 năm 1966 của cựu tổng thống De Gaulle viết cho Chủ tịch Hồ Chí Minh)1 phía Pháp đã cố tình không nhận thức được điều đó nên đã không tạo điều kiện để hai bên có được sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai phía Pháp Việt. Jean Lacouture viết tiếp:

"Buổi tối ngày hội nghị kết thúc, ông Giáp dành cho tôi một cuộc phỏng vấn dài. Sau đó ông khăng khăng đòi đọc lại bản ghi chép của tôi, cố hiệu đính bài viết một cách cẩn trọng của một người yêu tiếng Pháp là thứ tiếng mà ông biết một cách hoàn hảo…".

Một chi tiết mà Jean Lacouture tiết lộ như một khám phá về thiện chí thương lượng của ông Giáp. Mặc dù hội nghị Đà Lạt đã thất bại, vậy mà - như Jean Lacouture tiết lộ - khi hiệu đính bài viết của mình, chính ông Giáp là người gợi ý cho tôi dùng cụm từ "sự bất đồng ý kiến trong hữu nghị" (Le désaccord cordial) để mô tả hội nghị Đà Lạt. Năng lực chính khách cũng như chính kiến không khoan nhượng của ông thấm nhuần trong từng câu… Giải thích vì sao hồi đó người ta gọi Võ Nguyên Giáp là "ngọn núi lửa phủ tuyết", Jean Lacouture viết:

"Đó là hình tượng thể hiện sự pha trộn giữa nhiệt tâm cháy rực với những phán quyết lạnh lùng tạo nên sức mạnh của con người này… Với Giáp, chúng ta cần mô tả thiên tài và niềm say mê của ông…Trong bộ quân phục là một con người nhỏ bé với cái đầu của một con sư tử và vầng trán của một nhà tư tưởng, một con người đã sử dụng bạo lực như nguyên liệu để xây dựng một dân tộc.".

Với bạn bè, nhất là với các nước châu Phi vốn cùng cảnh ngộ thì "con sư tử Võ Nguyên Giáp" lại có những tình cảm chính trị hết sức ưu ái. Chính phủ và nhân dân châu Phi có lòng mến mộ đặc biệt đối với cá nhân ông Võ Nguyên Giáp, không chỉ vì tài thao lược của một vị tướng với những bài học chiến lược về chiến tranh giải phóng trong quá khứ, mà còn vì sự quan tâm của nhà chính trị Võ Nguyên Giáp về những vấn đề liên quan đến mối quan hệ hợp tác giữa châu Phi với Việt Nam. Báo chí các nước bạn nói nhiều đến cuộc gặp gỡ giữa đại biểu 23 nước với Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân dịp các bạn sang Hà Nội dự hội thảo Viêt Nam - châu Phi tháng 5 năm 2003. Trong cuộc tiếp, khi đề cập đến vấn đề hợp tác Việt Nam - châu Phi, ông Giáp nói :

"Sự hợp tác đó đã phát triển, nhưng còn chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của hai bên, vì thế hai bên phải làm nhiều hơn nữa để thúc đẩy mối quan hệ đó. Mong rằng không chỉ hợp tác về nông nghiệp mà còn phải tiến xa hơn nữa trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, công nghệ. Khối đoàn kết Việt Nam - châu Phi trên cơ sở hợp tác với các nước phát triển tiến bộ sẽ từng bước tiến kịp các nước phát triển khác trên thế giới.

Ông giới thiệu với các đại biểu châu Phi một kinh nghiệm về nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam bằng cách nhắc lại khẩu hiệu hành động mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra cho toàn dân Việt Nam : Đoàn kêt - Đoàn kết - Đại đoàn kết - Thành công - Thành công - Đại thành công.

Những chuyến thăm hữu nghị châu Phi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã để lại những ấn tượng hết sức sâu sắc trong lòng nhân dân các nước bạn. Nhân dân An-giê-ri - nhất là lớp trẻ - thường nhắc đến câu nói của ông nhân cuộc mít tinh chào mừng nhân dịp ông sang thăm. Câu nói của Võ Nguyên Giáp đã trở thành giai thoại trong nhân dân nước bạn : Những tên đế quốc đều là những học trò tồi, chúng không có khả năng tiếp thu những bài học của lịch sử. Người dân nước Bắc Phi này thích thú câu nói đó vì nó gợi lại sự kiện năm 1954, quân viễn chinh Pháp vừa thua trận ở Điện Biên Phủ đã vội kéo sang gây lại cuộc chiến tranh xâm lược Bắc Phi để rồi 8 năm sau (1962) buộc phải ký hiệp định Evian và rút quân khỏi An-giê-ri.

Cũng trong cuộc mít tinh này ở thủ đô An-giê, ông đã nói đến một nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam , đó là tinh thần dân tộc, là yếu tố nhân dân. Cũng với tinh thần đó, mấy năm sau, ông lại nói với phái đoàn quân sự cấp cao Ấn Độ do thống chế Mehra dẫn đầu sang thăm Việt Nam. Sau khi cám ơn nhân dân Ấn Độ về sự ủng hộ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và đáp lại những lời của thống chế ca ngợi vị Tổng chỉ huy Việt Nam, ông Võ Nguyên Giáp nói :

"… Còn về các tướng lĩnh của chúng ta, dù có tài giỏi đến đâu, nhưng nếu không có một tập thể lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, không có một dân tộc anh hùng và một quân đội anh hùng thì cũng không làm nên được công lao thành tích nào…".

Đó là nói với bạn bè quốc tế, những người cùng cảnh ngộ trong thế giới thứ ba. Ông Võ Nguyên Giáp cũng không bỏ lỡ dịp để lý giải cho các vị khách phương Tây - kể cả những người hôm qua còn là kẻ thù của Việt Nam - biết rằng: hàng chục thế kỷ nay, nhiều người nước ngoài không đánh giá đúng tinh thần dân tộc của nhân dân Việt Nam, không đánh giá đúng sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

Ngày 23 tháng 6 năm 1997, trong cuộc tiếp cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ Măc Namara và một số quan chức quân sự cao cấp Mỹ, một thành viên trong đoàn khách hỏi ông Giáp một câu khiến mọi người chú ý : Trong 30 năm chiến tranh, vị tướng nào được ông đánh giá cao nhất? Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời rằng chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ, còn bất kỳ vị tướng nào dù có công lao đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Vị tướng mà ông Giáp đánh giá cao nhất là tướng nhân dân. Cũng như tướng Lơcle nửa thế kỷ trước, ngài cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ và các vị khách Hoa Kỳ khó mà hiểu hết được chiều sâu câu nói của người đối thoại - nhà chính trị lão thành đồng thời cũng là nhà quân sự số 1 Việt Nam.

Cái "tôi" trong mối quan hệ với tập thể

Trên tờ Sunday Times Magazine, số ra ngày 12 tháng 11 năm 1972, tác giả James Fox viết: "Sẽ là sai lầm nếu ta tìm cách tách ông (Võ Nguyên Giáp) ra khỏi khuôn khổ lãnh đạo tập thể…

Trong suốt cuộc đời cầm quân của mình, ông Giáp luôn tôn trọng, đề cao và tuân thủ sự lãnh đạo của tập thể Thường vụ (sau là Bộ Chính trị), của Ban Chấp hành Trung ương, Chính phủ và Cụ Hồ. Cái "tôi" trong ông là cái "tôi" dĩ công vi thượng, mang hết tâm trí suy nghĩ và chủ động đề đạt với tập thể lãnh đạo từng chủ trương chiến lược và khi đã được sự đồng tình của tập thể, cái "tôi" đó lại đem hết trí tuệ và tài năng, tìm mọi biện pháp để cho chủ trương chiến lược được thực hiện với kết quả cao nhất. Mỗi lần phát biểu trước tướng lĩnh và toàn quân, khi nói đến nguyên nhân thành công của một chủ trương chiến lược, thắng lợi của một chiến dịch, bao giờ yếu tố lãnh đạo của Trung ương Đảng và của Cụ Hồ cũng được ông Giáp nêu lên hàng đầu, sau đó mới đến sự chỉ đạo chỉ huy của tập thể Quân ủy. Trong các báo cáo tổng kết định kỳ hay sau mỗi chiến dịch không hề thấy cái "tôi" xuất hiện khi nói về thành tích, kể cả những trường hợp cá nhân ông dường như là yếu tố quyết định đầu tiên đối với thắng lợi, ví như trường hợp thay đổi phương châm tác chiến chiến dịch Biên Giới hay Điện Biên Phủ.

Nhớ lại khi nhận nhiệm vụ tổ chức Đội Quân giải phóng, yếu tố thắng lợi đầu tiên mà Cụ Hồ nói với ông Giáp là Có Đảng lãnh đạo (sau đó mới là Dựa hẳn vào dân…). Ai cũng biết kiến thức quân sự của mấy đảng viên trong Chi bộ của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân trong những ngày đầu còn rất hạn chế. Vậy mà khi chọn mục tiêu tiến công và quyết định cách đánh trong hai trận Phay Khắt và Nà Ngần, ông Giáp đều đem ra thảo luận trong tập thể chi bộ để cùng nhau quyết định.

Việc chỉ đạo chuẩn bị cho cả nước bước vào kháng chiến cuối năm 1946 là dựa theo nghị quyết Hội nghị quân sự ngày 19 tháng 10 ở phố Nguyễn Du (Hà Nội) do Tổng bí thư Trường Chinh chủ trì. Nhưng trước đó, trên cơ sở thống nhất nhận định với ông Trường Chinh về "khả năng hòa hoãn ngày càng giảm, khả năng nổ ra xung đột toàn cục ngày càng tăng", nhất là sau cuộc đảo chính (bất thành) hồi tháng 7-1946 của quân Pháp và sau thất bại của cuộc đàm phán ở Phôngtenblô, được sự nhất trí của Thường vụ, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã căn cứ vào tình hình các chiến trường để chỉ đạo phân chia các chiến khu, sắp xếp cán bộ, điều chỉnh lực lượng và chỉ đạo chuẩn bị kế hoạch sao cho phù hợp với từng địa bàn chiến lược. Và khi có nghị quyết hội nghị quân sự Nguyễn Du thì nhiều mặt chuẩn bị đã được triển khai từ Đà Nẵng trở ra. Điển hình là sự chỉ đạo chuẩn bị chiến đấu ở Thủ đô Hà Nội. Các ông Vương Thừa Vũ và Hoàng Văn Thái được ông Giáp chỉ đạo từng bước cụ thể, theo đúng tinh thần chỉ thị của Tổng bí thư Trường Chinh: "Không để tái diễn sự kiện Hải Phòng trên đất Thủ đô". Giờ nổ súng ở Hà Nội và trên toàn quốc do ông Giáp đề nghị đã được Thường vụ chấp thuận trong cuộc hội ý cuối cùng ngày 18 tháng 12 ở Vạn Phúc. Và Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã chỉ đạo chặt chẽ mọi công tác chuẩn bị cho giờ phút lịch sử tối ngày 19 tháng 12 ở Hà Nội cũng như trên cả nước.

Việc thay đổi kế hoạch tác chiến mùa khô 1947 là một việc lớn, được quyết định khi cục diện chiến trường đang chuyển biến hết sức khẩn trương và ông Giáp đã sớm nhận thấy hành động tiến công của quân Pháp ở nhiều hướng trên toàn căn cứ địa Việt Bắc khác xa với nhận định ban đầu của ta. Từ thực tế cuộc hành binh của địch trên sáu tỉnh Việt Bắc, từ thực tế hiện tượng "vỡ mặt trận" hồi đầu năm 1947 và từ kinh nghiệm sốt dẻo hoạt động của một đơn vị vũ trang trong lòng địch ở nam phần Bắc Ninh, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã đề nghị với Cụ Hồ và tập thể Thường vụ cho triển khai ba mặt trận và thay đổi cách đánh chiến dịch. Do kịp thời thay đổi kế hoạch tác chiến mà ta đã lật ngược được thế cờ, chuyển từ bị động sang chủ động và cuối cùng phần thắng trong chiến dịch Việt Bắc đã thuộc về quân và dân ta.

Phát động chiến tranh du kích là một chủ trương chiến lược xuyên suốt của Đảng trong cả cuộc chiến tranh giải phóng. Nhưng phải từ những thực tế khó khăn trong năm đầu kháng chiến toàn quốc và từ những câu hỏi dai dẳng "vì sao một thời gian dài chiến tranh du kích không phát động lên được" v.v... cho đến khi phương châm đại đội độc lập - tiểu đoàn tập trung ra đời là cả một thời gian dài suy nghĩ của Tổng chỉ huy để tìm ra biện pháp nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương chiến lược của Trung ương.
(Còn n­­­ữa )
TRẦN TRỌNG TRUNG