Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đó là một thắng lợi vũ đại của dân tộc ta. Tuy nhiên, vào thời điểm từ sau Cách mạng Tháng Tám đến cuối năm 1946, cách mạng nước ta đứng trước những khó khăn chồng chất, những thử thách nghiêm trọng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một nhân chứng lịch sử đã viết: “Khó khăn lớn nhất lúc này là các quân đội nước ngoài từ bốn phương cùng dồn dập kéo tới. Bọn ở gần, bọn ở xa. Chúng khác nhau về màu da, về tiếng nói, nhưng rất giống nhau ở một dã tâm; muốn thôn tính đất nước chúng ta, muốn đẩy chúng ta trở về với cuộc sống nô lệ”(1). Vận mệnh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong tình thế hiểm nghèo của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã sáng suốt phân tích tình hình, đánh giá đúng âm mưu, hành động và khả năng của các thế lực đế quốc, xác định đường lối Kháng chiến kiến quốc, vừa kháng chiến chống xâm lược, vừa xây dựng chế độ mới. Trước âm mưu, thủ đoạn xâm lược, can thiệp trắng trợn của bọn đế quốc và tương quan lực lượng bất lợi cho ta, chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà. Đảng ta đã thực hiện sách lược hòa hoãn. Với Tưởng Giới Thạch, ta thực hiện sách lược “Hoa-Việt thân thiện”. Với thực dân Pháp là kẻ thù chính, ta ký Hiệp định sơ bộ (ngày 6 tháng 3 năm 1946) và Tạm ước (ngày 14 tháng 9 năm 1946). Thực hiện thành công sách lược đúng đắn đó, ta đã giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng, đuổi quân Tưởng cùng bọn tay sai về nước, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Nhưng bọn thực dân Pháp hiếu chiến với dã tâm muốn đặt lại ách thống trị trên đất nước ta một lần nữa đã trắng trợn xé bỏ các hòa ước đã ký kết, gây ra các vụ xung đột đẫm máu và đưa ra các yêu sách ngang ngược, thực chất là tối hậu thư đòi Chính phủ và nhân dân ta hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện.
Đáp lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng trong Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (ngày 12 tháng 12 năm 1946) và Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 19 tháng 12 năm 1946), với ý chí “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(2), cả dân tộc ta nhất tề đứng lên kháng chiến.
20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, quân, dân Thủ đô Hà Nội chủ động đánh thực dân Pháp xâm lược, mở đầu Toàn quốc kháng chiến. Với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân dân Hà Nội sát cánh chiến đấu, mỗi đường phố là một trận địa, mỗi ngôi nhà, góc phố là một pháo đài, cả thành phố là một mặt trận. Trải qua 60 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân và dân Hà Nội đã tiêu diệt gần 2.000 tên địch, phá hủy hàng chục xe quân sự và nhiều phương tiện chiến tranh; giam chân đạo quân chủ lực mạnh, làm thất bại kế hoạch nhanh chóng chiếm Hà Nội, tạo bàn đạp đánh chiếm đồng bằng Bắc Bộ của địch; bảo vệ được cơ quan đầu não kháng chiến, giữ gìn và phát triển lực lượng vũ trang, cổ vũ và tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương bước vào kháng chiến. Đó là chiến công “Đại thắng lợi” như lời khen của Bác Hồ.
Cùng với Hà Nội, các địa phương khác cũng đồng loạt tổ chức đánh giặc, hạn chế địch mở rộng vùng chiếm đóng, đồng thời thực hiện tiêu thổ kháng chiến, làm vườn không nhà trống và tổ chức đánh du kích gây cho chúng nhiều khó khăn, tổn thất. Kết quả chung là quân, dân ta đã tiêu diệt được hàng ngàn quân Pháp, làm phá sản chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của chúng, giữ gìn và phát triển lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Thắng lợi của những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến có ý nghĩa rất quan trọng và cho ta nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, trong đó có bài học về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Một là, Đảng ta và nhân dân ta xác định đúng vị trí nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước ta đã giành được độc lập, thống nhất. Nhưng quân đội đế quốc còn chiếm đóng trên nhiều vùng lãnh thổ và đang thực hiện âm mưu can thiệp, xâm lược đất nước ta. Như thế, nền độc lập, thống nhất chưa được trọn vẹn và đang có nguy cơ bị thủ tiêu. Đảng ta xác định tính chất cuộc cách mạng Việt Nam lúc này “vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”; “Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì nước ta chưa được hoàn thành độc lập”; “nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong”, “Khẩu hiệu vẫn là “dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”(3). Thực tế là cuộc kháng chiến chống quân Pháp xâm lược đã diễn ra từ cuối tháng 9 năm 1945 và dù có thời kỳ hòa hoãn, Đảng ta vẫn dự kiến cuộc chiến tranh lớn khó tránh khỏi. Vì thế, công cuộc chống ngoại xâm bảo vệ độc lập thống nhất dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của nhân dân ta. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang có sự thay đổi lớn và càng nặng nề hơn gấp bội. Từ một đội quân khởi nghĩa nhỏ bé, làm nhiệm vụ chiến đấu hỗ trợ cho cuộc nổi dậy của toàn dân giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám, đã trở thành lực lượng nòng cốt cho cuộc đấu tranh quân sự, hỗ trợ các hình thức đấu tranh khác và nhất là chuẩn bị cho cuộc chiến tranh nhân dân chống xâm lược trong toàn quốc có thể xảy ra một sớm, một chiều. Đảng ta, Nhà nước và nhân dân ta đã sớm coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang về mọi mặt.
Ngay từ tháng 8 năm 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã chủ trương “vũ trang toàn dân”, “Mở rộng Quân giải phóng Việt Nam”. Tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị phải nhanh chóng chấn chỉnh và mở rộng Giải phóng quân. Đến ngày 22 tháng 5 năm 1946, Chính phủ ra Sắc lệnh 71/SL, quân đội chính thức được gọi là Quân đội quốc gia, biên chế theo từng trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội. Cuối năm 1946, bộ đội chủ lực đã lên tới hơn 8 vạn. Ở các tỉnh có chi đội, các huyện có chi đội hoặc phân đội bộ đội địa phương. Các địa phương Nam Bộ, Nam Trung Bộ tổ chức các đội du kích, phối hợp cùng bộ đội và nhân dân đánh giặc. Ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ thành lập các đơn vị dân quân tự vệ cùng bộ đội và nhân dân chống địch quấy phá, bảo vệ cơ quan, bảo vệ án bộ và nhân dân. Đến cuối năm 1946, dân quân tự vệ, du kích đã phát triển đến gần một triệu. Đi đôi với phát triển về số lượng, chất lượng lực lượng vũ trang cũng được coi trọng và không ngừng nâng cao. Đảng và Nhà nước đã dành nhiều nguồn tài chính để mua sắm vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang. Việc huấn luyện quân sự được tiến hành khẩn trương. Các trường lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ được thành lập, nhiều cán bộ Đảng và Mặt trận Việt Minh được điều sáng làm cán bộ quân sự. Để thống nhất sự lãnh đạo, chỉ huy, quản lý bộ đội và đẩy mạnh mọi mặt hoạt động, Bộ Tổng tham mưu, Cục Chính trị và Phòng quân nhu (sau đổi là Cục quân nhu) được thành lập, tiếp đó, một số binh chủng hỏa lực, kỹ thuật cũng được tổ chức. Hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội ngày càng kiện toàn từ Trung ương Quân ủy đến chi bộ ở các đại đội, bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, ở Nam Bộ, khi quân Pháp gây chiến tranh xâm lược, một số đơn vị vũ trang hình thành (Đệ nhị, Đệ tam, Đệ tứ sư đoàn…), không có sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, không có sự chỉ huy thống nhất của Ủy ban Kháng chiến và cơ quan quân sự nên tổ chức phức tạp, thiếu sức chiến đấu, nhanh chóng phân hóa, tãn rã.
Nhờ xác định đúng vị trí và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nên khi Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, chúng ta đã có lực lượng căn bản để đánh thắng địch ngay từ những ngày đầu.
Hai là, dựa chắc vào dân để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân trong thế trận chiến tranh nhân dân.
Lực lượng vũ trang nhân dân ta do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức và lãnh đạo, sinh ra từ trong cao trào cách mạng của quần chúng, được nhân dân nuôi dưỡng, giáo dục, chở che và phối hợp chiến đấu, là lực lượng của dân, do dân, vì dân, quan hệ quân dân-cá nước đã trở thành truyền thống quý báu của lực lượng vũ trang ta.
Khi cách mạng còn trong thời kỳ trứng nước, mọi công việc cách mạng, trong đó có nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang đều trông cậy vào dân. Cách mạng thành công, có chính quyền, Nhà nước, quân đội đã trở thành Quân đội quốc gia, tự vệ, du kích được chính quyền tổ chức, quản lý. Chính quyền của ta là chính quyền nhân dân, nền quốc phòng của ta lúc đó là nền quốc phòng nhân dân, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước ta đang khó khăn trăm bề, với chính quyền cách mạng non trẻ thì chỉ có dựa vào sức mạnh và sự ủng hộ của nhân dân, lực lượng vũ trang mới ngày càng lớn mạnh, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao. Đảng ta, Nhà nước ta đã dựa chắc vào dân để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân.
Sau Cách mạng Tháng Tám, các đoàn thể cứu quốc đều quân sự hóa. Mọi người nô nức học tập quân sự, tự sắm sửa vũ khí, phong trào vũ trang toàn dân sôi nổi. Các đội tự vệ được củng cố, phát triển trở thành Tự vệ cứu quốc. Đến cuối năm 1946, hầu hết các thôn xã, đường phố, nhà máy trên cả nước đều tổ chức du kích và dân quân tự vệ. Cùng với phong trào vũ trang toàn dân và sự phát triển các đội tự vệ, bộ đội chủ lực cũng được củng cố và phát triển vượt bậc. Lực lượng tham gia quân đội phần lớn là đôn từ du kích, tự vệ lên, số khác là những thanh niên yêu nước con em nhân dân được gia đình, làng xã động viên tòng quân. Nhân dân còn hưởng ứng Tuần lễ vàng, Đảm phụ quốc phòng đóng góp tiền, vàng bạc để mua vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang. Đảng cũng đề ra chủ trương phải làm cho dân chúng và quân đội liên lạc và hợp tác chặt chẽ với nhau, thực hiện khẩu hiệu quân dân nhất trí. Đặc biệt trong những ngày chiến đấu mở đầu Toàn quốc kháng chiến, nhân dân cả thành thị và nông thôn đã sát cánh cùng lực lượng vũ trang, vừa làm nhiệm vụ hậu cần, trinh sát, trợ chiến, phối hợp chiến đấu, bổ sung lực lượng cho bộ đội. Nhân dân còn đưa đường, chuyên chở bộ đội, đánh chặn địch để bộ đội rút lui an toàn từ thành phố ra vùng căn cứ kháng chiến. Mặt khác, lực lượng vũ trang ba thứ quân-con đẻ của nhân dân-là lực lượng nòng cốt trên mặt trận đấu tranh quân sự, đã chiến đấu, hy sinh bảo vệ dân, hỗ trợ cho nhân dân tản cư ra vùng kháng chiến, hỗ trợ việc tháo dỡ, vận chuyển máy móc, kho tàng lên chiến khu chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Có thể khẳng định, nhờ dựa chắc vào dân nên trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp như vậy, chúng ta đã xây dựng được lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu những ngày đầu kháng chiến; thể hiện rõ là lực lượng vũ trang cách mạng của dân, do dân, vì dân.
Ba là xây dựng lực lượng vũ trang từng bước vững mạnh toàn diện, coi trọng trước hết là xây dựng lý tưởng, tinh thần chiến đấu.
Những ngày đầu của chế độ mới, nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là bộ đội chủ lực vững mạnh toàn diện là yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp bách của cách mạng. Trong hoàn cảnh nước ta lúc đó, chế độ mới vừa ra đời, kinh tế, tài chính nghèo nàn, các ngành công nghiệp và kỹ thuật sản xuất thấp kém, vì vậy về vũ khí trang bị, kỹ thuật chiến thuật, biên chế tổ chức, cán bộ, chúng ta chỉ có thể xây dựng từng bước. Nhưng mục tiêu, lý tưởng, tinh thần chiến đấu là ưu thế tuyệt đối của ta, cần chú trọng xây dựng và phát huy vai trò nhân tố đó trong chiến đấu và trưởng thành của lực lượng vũ trang trước và trong Toàn quốc kháng chiến.
Lực lượng vũ trang của ta mới thành lập, cán bộ, chiến sĩ xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp, hoàn cảnh… khác nhau, chưa được giáo dục, rèn luyện nhiều trong thực tiễn chiến đấu và cuộc sống quân ngũ. Họ vốn có lòng yêu nước, căm thù giặc, nhưng giác ngộ dân tộc và nhất là giác ngộ giai cấp, giác ngộ về mục tiêu lý tưởng chiến đấu chưa sâu sắc; nhận thức về ta, bạn thù cũng giản đơn, có khi còn lệch lạc, ý thức tổ chức kỷ luật của một số cán bộ, chiến sĩ chưa cao. Điều đó dễ ảnh hưởng đến ý chí, tinh thần kiên định chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, chiến đấu hy sinh vì mục tiêu chung của cách mạng, đến hoàn thành nhiệm vụ.
Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng rất coi trọng giáo dục động cơ, lý tưởng chiến đấu cho lực lượng vũ trang, trước hết là nhận thức đúng đắn bản chất xâm lược của kẻ thù và mục tiêu chiến đấu vì nền độc lập của dân tộc. Trong Lời hiệu triệu đồng bào toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta phải hiểu rằng: Có nhiều thứ chiến tranh: Chiến tranh bằng sức người, chiến tranh bằng võ khí, chiến tranh bằng chính trị, chiến tranh bằng tinh thần, v.v… dân tộc ta bây giờ ắt phải luôn luôn chuẩn bị, đồng thời phải luôn luôn trấn tĩnh, kiên quyết sẵn sàng đối với mọi tình thế, không bao giờ rối trí sợ sệt”(4). Thư gửi các chiến sĩ Nam Bộ và Nam Trung Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi, cổ vũ những chiến công oanh liệt, những gương chiến đấu dũng cảm hy sinh của các chiến sĩ và tin rằng một đất nước có những người con anh hùng như thế nhất định không chịu mất nước một lần nữa. Người khẳng định chỉ có chiến đấu mới đưa lại vẻ vang cho Tổ quốc.
Tại Hội nghị Quân sự toàn quốc ngày 19 tháng 10 năm 1946, Đảng đã nhận định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định phải đánh lại. Trong cuộc chiến đấu đó, “phải tự tin rằng tuy kém về kỹ thuật, vũ khí nhưng với tinh thần dẻo dai, bền bỉ, mình nhất định sẽ thắng”. Trong chỉ thị Toàn dân kháng chiến, Thường vụ Trung ương Đảng yêu cầu lực lượng vũ trang: Không hàng giặc, phải ủng hộ Chính phủ kháng chiến và ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải kính trọng và bảo vệ tính mệnh, tài sản cho dân, phải đoàn kết nhất trí cán bộ với chiến sĩ, phải phục tùng kỷ luật, tuân lệnh cấp trên, không ngược đãi tù binh…
Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi:
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta(5).
Thay mặt Chính phủ, Người ra lệnh cho quân đội, tự vệ, dân quân và đồng bào đứng dậy bảo vệ Tổ quốc bằng tất cả khí giới mà chúng ta có. Trong thư gửi các chiến sĩ Thủ đô đang chiến đấu, Bác biểu dương: “Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại… Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau”(6).
Nhờ có sự chuẩn bị và động viên, cổ vũ về tư tưởng, tinh thần sâu sắc cùng với xây dựng và củng cố tổ chức chặt chẽ, kịp thời nên lực lượng vũ trang đã cùng toàn dân phát huy được sức mạnh tổng hợp, khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn, dũng cảm, kiên cường chiến đấu, mở đầu Toàn quốc kháng chiến thắng lợi.
Sáu mươi năm đã trôi qua, những bài học về xây dựng lực lượng vũ trang của thời kỳ mở đầu Toàn quốc kháng chiến vẫn nguyên giá trị thực tiễn. Lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được nhân dân thương yêu, đùm bọc, anh em, bạn bè quốc tế ủng hộ, đã làm nòng cốt trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Ngày nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta đang trong điều kiện hòa bình. Nhưng trên phạm vi thế giới và khu vực, cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giải cấp tiếp tục diễn ra gay gắt dưới nhiều hình thức và quy mô. Tình hình chính trị, quân sự diễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Đối với nước ta, các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta. Chúng âm mưu “phi chính trị hóa”, “vô hiệu hóa” lực lượng vũ trang để dễ bề lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong tình hình, nhiệm vụ mới của cách mạng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định nhiệm vụ tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi, và làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”(7). Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang đó, phải xác định đúng tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng vũ trang, trong đó lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, xây dựng sức mạnh toàn diện và sức chiến đấu của quân đội và lực lượng vũ trang, bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội nói riêng và lực lượng vũ trang nói chung; giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc của quân đội ta; nâng cao chất lượng chính trị, bảo đảm cho quân đội ta, lực lượng vũ trang ta tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, có tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, mưu trí, sáng tạo, đoàn kết hiệp đồng, là cơ sở vững chắc để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử. Nxb. Văn học H.1997, tr. 253; (2) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia. H.2000, tr. 480; (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. H.2000, tr. 26, 27; (4) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. H.2000, t4. tr. 187; (5) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. H.2000, t4. Sđd. tr. 480; (6) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. H.2000, t5. tr. 35; (7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 10, Nxb. Chính trị quốc gia. H.2006, tr. 108, 109.
Thượng tướng Lê Văn Dũng - Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị