 |
ATK Định Hoá-Thái Nguyên |
Đáp ứng tâm nguyện của các vị lão thành cách mạng, nguyên là các cán bộ Bộ Nội vụ thời chiến tranh chống thực dân Pháp, Bộ Nội vụ tổ chức một chuyến đi về nguồn, thăm lại Thủ đô kháng chiến, thánh địa ATK Tân Trào, Tuyên Quang. Lần đi này, có 8 cụ trên dưới tuổi tám mươi, trong đó có cụ đã hỏng một mắt, có cụ đã lom khom, phải có người dìu đi từng bước. Tôi là một trong số 8 cụ đó.
Từ Hà Nội, xe chở chúng tôi lao mỗi phúát mỗi sâu về phía thành Tuyên. Sở Nội vụ tỉnh Tuyên Quang bố trí tiếp đón chu đáo. Sáng hôm sau, chúng tôi vào thăm lại nơi đã từng sống và làm việc từ ngày đầu các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận từ Thủ đô Hà Nội lên đóng trong ATK Việt Bắc. Ngày trước, vào Tân Trào chỉ có đường mòn, nay con đường vào di tích lịch sử này đã được rải nhựa trơn tru.
Xe đỗ ngay trước sân mái đình Tân Trào. Thuyết minh Bảo tàng Tân Trào là cô gái Cao Lan, cổ đeo vòng bạc dân tộc thiểu số, giọng lên bổng xuống trầm, có giây phút giọng cô đọng nước mắt:
- Kính thưa các cụ. Đình Tân Trào xuất hiện từ năm 1903 thời vua Khải Định trị vì. Nơi đây trước có tên là Minh Thanh. Khi Bác Hồ về đây lập chiến khu, Bác Hồ đổi tên là Tân Trào. Tân Trào, có nghĩa là trào lưu mới, trào lưu giành độc lập, giải phóng non sông.
Cô gái Cao Lan hướng bàn tay trắng nõn về phía sàn gỗ nói:
- Cái cột đình bên trái kia, Bác Hồ đã ngồi tựa lưng để điều khiển Đại hội quốc dân vào ngày 17-8-1945, quyết định Tổng khởi nghĩa toàn quốc.
Giọng cô rời rạc, nước mắt rơi, làm cho tất cả các cụ cũng khóc theo khi nói đến câu: “… Dạ kính thưa, chính thời điểm ấy Người đang lên cơn sốt rét cao đó ạ…”.
Các cụ thắp hương lễ các liệt sĩ xong, sang thăm đình Hồng Thái. Tại đây chúng tôi nhìn lại tảng đá to mà chính nó đã trở thành một tài sản văn hóa quý. Năm 1945, quân đội Đồng minh đã trợ giúp chuyên gia chiến thuật cho Việt Minh bằng cách nhảy dù. Máy bay chở chuyên gia người Mỹ bay lượn thăm dò xem có đúng chiến khu Việt Minh không rồi mới nhảy. Chẳng may mấy ông chuyên gia Mỹ nhảy dù đều vướng dù trên ngọn cây cổ thụ.
Bác Hồ giỏi tiếng Anh, liền bảo mấy người cận vệ lấy vôi trắng ra để Bác viết chữ to trên tảng đá: “Đây chính là trung tâm chiến khu Việt Minh, xin các ngài cứ yên tâm hạ dù”. Viết xong, Bác cho các chiến sĩ Việt Minh leo lên ngọn cây tháo gỡ dù.
Mấy ông chuyên gia chiến thuật thở phào, cho súng lục vào bao nói từ ngọn cây xuống: “Cụ là ai mà giỏi tiếng Anh thế? Đúng là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc rồi!”.
Mặt trời đã leo cao ngót hai con sào, xe đưa các cụ vào thăm lán Nà Lừa, nơi Bác Hồ nằm gai nếm mật lãnh đạo cách mạng. Mọi người biết được chính nơi đây Bác Hồ ốm nặng. Đồng chí Võ Nguyên Giáp nhờ tìm một thầy lang dân tộc Tày đến khám bệnh. Thầy lang bắt mạch, quan sát sắc mặt Bác Hồ, ông lắc đầu nói rất chân thành: “Chỉ còn lại một phần sống thôi, còn chín phần hỏng rồi vớ…”. Rồi nói tiếp: “Còn nước còn tát”. Thời điểm tối nguy ấy, Bác Hồ đã nói như trối trăng lần cuối với đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Chú Giáp nầy… Bác sẽ đi… Chú ở lại nhớ rằng “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập”. Không một phút để phí thời gian, thầy lang thoăn thoắt len lỏi vào rừng tìm “củ hồi sinh” về, chính tay ông chế biến cho Bác Hồ uống… Bác Hồ tỉnh dần, khỏi bệnh.
Câu chuyện trên chúng tôi đã từng biết, nhưng khi đứng trước lán Nà Lừa, nghe kể lại, cảm xúc vẫn trào dâng. Nhiều người trong chúng tôi và đoàn hộ tống các cụ đi, ai cũng khóc ướt đẫm khăn tay.
Thầy lang cứu nhân độ thế ấy, về sau cách mạng thành công, nhiều người đi tìm mà không thấy. Thật đáng tiếc.
Chúng tôi tiếp tục được dẫn đi xem nơi Bộ Nội vụ làm việc thời chiến. Nơi đó nay còn lại chiếc hầm tránh máy bay, cạnh ngay bộ phận cơ mật của Bộ làm việc.
Thu hoạch trong chuyến đi về nguồn còn nhiều, nhưng chúng tôi có thể gói gọn trong hai từ “sống lại”.
ĐẶNG AN ĐỒNG